Góp ý xây dựng dự thảo, PGS.TS Trần Thành Nam – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, nhiều quốc gia có hệ thống tiêu chuẩn và cơ chế phát triển giảng viên rất đáng để tham khảo, nhất là trong việc đề cao tác động giảng dạy, chuyển đổi số và phục vụ cộng đồng.
Một số kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này được PGS.TS Trần Thành Nam chia sẻ như sau:
Vương quốc Anh: Thăng tiến học thuật gắn với đóng góp sư phạm, không chỉ dựa trên nghiên cứu
Vương quốc Anh: Anh quốc triển khai Khung Chuẩn nghề nghiệp sư phạm đại học (UK Professional Standards Framework – UKPSF) do Advance HE quản lý.
Khung UKPSF tập trung vào đánh giá hiệu quả và tác động trong việc hỗ trợ học tập, với các tiêu chí về kết quả người học, phương pháp giảng dạy sáng tạo, tính hòa nhập và bối cảnh giáo dục.
Giảng viên được khuyến khích đạt các chứng nhận nghề nghiệp (Associate Fellow, Fellow, Senior Fellow, Principal Fellow) dựa trên minh chứng về đóng góp cho chất lượng giảng dạy và hỗ trợ người học.
UKPSF nhấn mạnh giá trị cốt lõi của người dạy đại học là nâng cao trải nghiệm và kết quả học tập cho sinh viên, tạo cộng đồng thực hành chia sẻ kinh nghiệm. Việc thăng tiến học thuật gắn với đóng góp sư phạm, không chỉ dựa trên nghiên cứu. Khung 2023 của UKPSF còn đề cao tính hiệu quả, tính bao trùm và hoàn cảnh cụ thể, coi đó là nền tảng của thực hành giáo dục.
Cách làm của Anh cho thấy tầm quan trọng của chuẩn hóa năng lực giảng dạy và ghi nhận những đổi mới sư phạm như một tiêu chí nghề nghiệp song song với nghiên cứu.
Úc: Bộ tiêu chí rõ ràng về giảng dạy
Ở Úc, nhiều trường đại học áp dụng Khung tiêu chuẩn và tiêu chí giảng dạy đại học ở cấp quốc gia để định hướng đánh giá và phát triển giảng viên.
Australian University Teaching Criteria and Standards Framework (AUTCSF) đề ra 7 tiêu chí bao quát mọi khía cạnh hoạt động giảng dạy: Thiết kế và lập kế hoạch hoạt động học tập; phương pháp giảng dạy và hỗ trợ người học; đánh giá và phản hồi cho người học; phát triển môi trường học tập và hỗ trợ sinh viên; tích hợp nghiên cứu và hoạt động chuyên môn vào giảng dạy; tự đánh giá, phản tỉnh và phát triển chuyên môn; hiệu quả chuyên môn và năng lực cá nhân.
Khung này đóng vai trò như một ma trận hướng dẫn để giảng viên tự đánh giá và lập kế hoạch thăng tiến sự nghiệp, đồng thời là căn cứ cho các trường xét thưởng, thăng chức trong lĩnh vực giảng dạy.
Việc sử dụng khung tiêu chuẩn chung giúp đảm bảo mỗi giảng viên Úc đều chú trọng phát triển toàn diện kỹ năng sư phạm, chứ không chỉ nghiên cứu.
Đây là kinh nghiệm quý cho thấy cần một bộ tiêu chí rõ ràng về giảng dạy, từ thiết kế môn học đến cải tiến phương pháp và phát triển nghề nghiệp liên tục, làm cơ sở cho đánh giá giảng viên.
Singapore: Coi trọng vai trò giảng dạy ngang với nghiên cứu
Các đại học hàng đầu Singapore (NUS, NTU…) từ nhiều năm nay đã thiết lập các ngạch nghề nghiệp khác nhau cho giảng viên, đặc biệt là “Educator Track” – ngạch tập trung vào thành tích giảng dạy.
Giảng viên trên Educator Track có thể được thăng tiến tới chức danh “Giáo sư Giảng dạy” (Teaching Professor) nếu có đóng góp xuất sắc trong đổi mới phương pháp, viết giáo trình, dẫn dắt cải cách chương trình và mentoring sinh viên.
Tiêu chí đề bạt gồm: Giải thưởng giảng dạy, phản hồi tích cực của người học, sản phẩm phục vụ đào tạo được công nhận rộng rãi, nghiên cứu về giáo dục hoặc áp dụng pedagogical research.
Bên cạnh đó, Singapore vẫn duy trì Research Track cho những người thiên về nghiên cứu học thuật, và Practice Track cho chuyên gia từ công nghiệp tham gia giảng dạy. Chính sách này đảm bảo sự linh hoạt, thu hút và giữ chân nhân tài đa dạng.
Bài học Singapore nhấn mạnh việc coi trọng vai trò giảng dạy ngang với nghiên cứu – giảng viên có thể chọn lộ trình phù hợp sở trường và đều có cơ hội thăng tiến nếu xuất sắc.
Đồng thời, các trường ở Singapore rất chú trọng đầu tư bồi dưỡng: thành lập trung tâm phát triển giảng dạy, yêu cầu giảng viên mới tham gia các khóa sư phạm đại học, khuyến khích trao đổi kinh nghiệm quốc tế để liên tục nâng cao năng lực.
Hoa Kỳ và các nước Âu - Mỹ khác: Quy trình đánh giá toàn diện, thúc đẩy năng lực số
Ở Hoa Kỳ, tuy không có khung chuẩn cấp quốc gia, nhưng hầu hết các đại học đều áp dụng quy trình đánh giá toàn diện (tenure review) dựa trên ba trụ cột Teaching (Giảng dạy), Research (Nghiên cứu) và Service (Phục vụ cộng đồng).
Giảng viên muốn được bổ nhiệm vị trí lâu dài (tenure) phải minh chứng thành tích ở cả 3 lĩnh vực này qua hồ sơ năng lực và thư nhận xét đồng nghiệp. Đặc biệt, giảng dạy và phục vụ cộng đồng được coi trọng tùy sứ mệnh từng trường. Nhiều trường thiên về giáo dục đại cương, đào tạo nghề nghiệp đánh giá rất kỹ chất lượng giảng dạy và đóng góp của giảng viên cho nhà trường, xã hội (tham gia hội đồng, dự án cộng đồng, tư vấn chính sách địa phương…).
Xu hướng gần đây tại Mỹ và châu Âu là đề cao cái gọi là “Scholarship of Teaching and Learning (SoTL)” - tức hoạt động học thuật trong giảng dạy, khuyến khích giảng viên nghiên cứu, chia sẻ về chính phương pháp giáo dục.
Ngoài ra, châu Âu cũng đặc biệt thúc đẩy năng lực số của nhà giáo: Ủy ban EU ban hành Khung năng lực số cho nhà giáo – DigCompEdu, định nghĩa 22 năng lực thuộc 6 nhóm (giao tiếp số, tài nguyên số, dạy học số, đánh giá số, trao quyền cho người học, phát triển năng lực số cho người học) với 6 bậc trình độ.
Các quốc gia thành viên dựa vào khung này để thiết kế chương trình bồi dưỡng giáo viên trong chuyển đổi số. Đây là minh chứng cho thấy quốc tế rất coi trọng việc chuẩn hóa năng lực ứng dụng công nghệ trong giáo dục – điểm mà chuẩn giảng viên của ta cần cập nhật mạnh mẽ hơn.
Gợi mở từ kinh nghiệm quốc tế
Từ kinh nghiệm quốc tế, PGS.TS Trần Thành Nam cho rằng, một chuẩn nghề nghiệp hiệu quả phải đáp ứng các yếu tố sau:
Toàn diện (bao quát cả giảng dạy, nghiên cứu, phục vụ); linh hoạt (công nhận các thế mạnh khác nhau, có lộ trình nghề nghiệp đa dạng); lấy người học và chất lượng đầu ra làm trọng tâm; cập nhật xu hướng mới (chuyển đổi số, học tập suốt đời, hội nhập quốc tế).
“Việc tham khảo và nội địa hóa các mô hình như UKPSF, AUTCSF, DigCompEdu… sẽ giúp Việt Nam xây dựng chuẩn giảng viên phù hợp thông lệ tốt trên thế giới”, PGS.TS Trần Thành Nam cho hay.