Hình tượng người đi đường và bài học triết lý về đường đời …

GD&TĐ - Khi nói về tập thơ Nhật kí trong tù, nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: “ Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh”. Chất người cộng sản ấy đã toả sáng trong mỗi bài thơ, vần thơ tạo thành sức hấp dẫn, sức sống lâu bền trong lòng nhiều thế hệ độc giả. 

Hình tượng người đi đường và bài học triết lý về đường đời …

Tẩu lộ ( Đi đuờng) cũng là một bài thơ như thế. Đây là một văn bản tự học có hướng dẫn trong chương trình Ngữ văn 8, tập hai, Nxb Giáo dục. Bên cạnh chất người cộng sản ấy, bài thơ còn là bài học đường đời giàu tính triết lý với những điểm sáng độc đáo riêng cần khám phá, khơi mở.

Thực ra ở đây về đề tài và nội dung ý nghĩa văn bản không có gì mới. Ý niệm: “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Ngay như Lý Bạch cũng làm hẳn một chùm thơ Hành lộ nan gồm ba bài. Về nội dung, ý nghĩa bài thơ, tục ngữ có câu gần giống: Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Vương Chi Hoán, nhà thơ đời Đường xưa trong bài: Đăng quán tước lâu, cũng có câu: “Dục cùng thiên lý mục - Cánh thượng nhất tằng lâu”. (Muốn tầm mắt nhìn thấu ngàn dặm. Hãy lên cao thêm một tầng lầu). (Thơ Đường tập I - Nhà xuất bản Văn học năm 1987 - tr.111). Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh vẫn hay, vẫn hấp dẫn, mới mẻ và có độ sâu sắc riêng. Bài thơ toả sáng từ hình tượng nhân vật trữ tình- hình tượng người đi đường.

1. Hình tượng người đi đường luôn vận động theo mạch cảm xúc thơ được liên tục gợi mở, triển khai trong bài thơ. Người xưa có nhắc: Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy phải biết con người ấy là thế. Bài thơ "Đi đường" - Tẩu lộ không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Câu mở đầu là nhận xét chung của Bác về chuyện đi đường: Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan (Đi đường mới biết gian lao).

Câu thơ là một nhận định nhưng đồng thời cũng là một chân lí: Có đi đường mới biết những sự vất vả, khó khăn của việc đi đường. Câu thơ tiếp là hình ảnh miêu tả cụ thể khách quan về đường đi gian khó, cũng là sự phát triển ý thơ, mạch thơ của câu thơ đầu. Nó cụ thể hóa những gian lao trên đường đi thành hình ảnh: Trùng san chi ngoại hựu trùng san ( Núi cao rồi lại núi cao trập trùng). Nó làm sáng tỏ cái ý gian lao ở câu thơ thứ nhất. “Trùng san” có nghĩa là trùng trùng lớp lớp núi cao; “hựu” là “lại, lại lần nữa".

Trong một câu thơ mà có tới hai chữ “trùng san" ở đầu và cuối câu, lại có thêm chữ “hựu” tạo nên tiết tấu câu thơ dồn nén, nhanh, mạnh hơn. Không những thế còn tạo nên cấu trúc khép kín, kết cấu trùng lặp tăng tiến cho câu thơ. Kiểu cấu trúc, kết cấu này không chỉ gợi nên hình ảnh những đỉnh núi nhọn hoắt cao vút trời xanh trập trùng, nối tiếp, chồng lên nhau chạy mãi đến chân trời mà còn gợi hình ảnh kẻ chinh nhân bị đẩy vào tình thế bị hãm chặt lại, bị vây bọc bịt bùng giữa ba bề bốn bên là rừng núi.

Một chữ “hựu” đơn giản mà gợi được bao nhiêu điều chất chứa, nặng nề trong tâm trí người tù. Bởi vì vừa mới vượt được một dãy núi cao này chưa kịp nghỉ ngơi lại nối tiếp những dãy núi cao khác. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, con người vốn nhỏ bé, yếu ớt lại càng thêm nhỏ bé, yếu ớt hơn. Đường xa, vực sâu, dốc đứng… biết bao trở ngại, thách thức dễ làm cho con người chán nản, ngã lòng. Nhưng đối với Bác thì hoàn toàn ngược lại. Giữa vòng vây núi non trập trùng, hoang vu đó nổi lên hình ảnh một con người với nghị lực, sức mạnh phi thường. Và bởi vậy, hai câu thơ cuối bài đã thực sự thăng hoa:

“Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lí dư đồ cố miện gian”

Hai câu thơ được dịch khá sát là:

“Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.

Câu thơ chữ Hán dừng lại ở âm thanh chắc nịch của chữ “hậu”, tạo nên âm hưởng rắn rỏi, mạnh mẽ. Câu thơ dịch có âm điệu dàn trải như tiếng thở phào sung sướng, nhẹ nhõm. Câu thơ thứ hai kết thúc bằng hình ảnh “trùng san”, câu thơ thứ ba mở đầu cũng bằng hình ảnh ấy. Trong thơ dịch không liền như thế nhưng cũng lặp lại từ “núi cao”… “núi cao”…

Âm điệu ấy nâng con người lên cái thế tưởng như bình thường nhưng thực ra lại rất hào hùng. Thêm nữa, hai câu thơ này được cấu trúc trên mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót (cao phong hậu) thì muôn dặm nước non (vạn lí dư đồ) thu cả vào tầm mắt: Muốn vượt qua các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Sau những vất vả, nhọc nhằn của con đường leo núi, khi đã lên đến tận đỉnh người tù cách mạng mặc dù cổ đeo gông, chân vướng với một hành trình nặng nề, mệt mỏi được chứng kiến một hình ảnh vô cùng hùng vĩ “muôn trùng nước non”.

Con người đã đến đích sau cuộc hành trình muôn vàn gian khổ. Bài thơ kết thúc ở niềm vui, niềm kiêu hãnh to lớn đó. Âm hưởng câu thơ cuối ngân vang thể hiện niềm lạc quan vô hạn trước tương lai tươi đẹp. Như vậy, ý thơ và mạch thơ luôn đuợc phát triển và mở rộng liên tục một cách vừa tự nhiên, hợp lý vừa bất ngờ, thú vị tạo nên những vỉa tầng ý nghĩa sâu sắc cho văn bản. Theo đó, hình tượng người đi đường cũng dần dần phát lộ những vẻ đẹp riêng, đáng quý của mình.

2. Hình tượng người đi đường ở đây còn giàu cảm hứng thơ. Cảm xúc thơ nảy nở trên cơ sở những chiêm nghiệm từ đời sống thực tế mà bản thân đã trải qua. Bài thơ ra đời trong những năm tháng Bác Hồ bị bắt giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bác bị chúng giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Trong những ngày bị tù đày, Hồ Chí Minh bị áp giải qua nhiều nhà lao. Theo Trần Dân Tiên trong những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch thì Người bị giam giữ trong gần ba mươi nhà lao huyện và xã. Chuyện đi đường là việc xảy ra hằng ngày.

Bác cũng đang bằng cảnh ngộ riêng của mình, rút ra bài học cho chính mình. Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ, bốn câu). Sự hàm súc, cô đọng của ngôn từ cùng niêm luật nghiêm ngặt của thơ Đường không bó buộc nổi tứ thơ phóng khoáng và cảm xúc dạt dào của thi nhân trước hiện thực của bản thân. Bản dịch ra tiếng Việt theo thể lục bát tuy có làm mềm đi đôi chút cái âm điệu rắn chắc, khỏe khoắn vốn có của nguyên tác nhưng vẫn thể hiện được nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bài thơ.

Bài thơ Đi đường mở đầu cho hành trình bị áp giải: Tẩu lộ tài tri, tẩu lộ nan (Có đi đường mới biết đường đi khó). Như những nốt nhấn đúng nhịp (nhịp 4/3), câu thơ hàm súc, dồn nén mà chan chứa cảm xúc đúc rút từ hiện thực của bao hành trình vất vả, hiểm nguy mà Bác đã phải trải qua.

Đó vừa như một nhận xét vừa như một nghiền ngẫm, suy nghĩ chiêm nghiệm bằng chính mồ hôi, nước mắt, máu thịt của mình. Bằng thể thơ nhật kí gần gũi, chân thật, từ ngữ giản dị, quen thuộc, câu thơ đọc lên có một độ ngân rung từ nỗi niềm có thật. Đọc câu thơ tưởng nhẹ nhõm tựa lông hồng này ta thấy một sức mạnh ngàn cân bởi nó được rút ra từ chính cảnh cơ cực của nhà thơ. Câu thơ như một lời nhận xét thốt ra rất tự nhiên của người tù đã thấm mệt trên con đường bị giải đi. Đây chính là một sự trải nghiệm, một câu thơ được đánh đổi bằng chính những ngày đi đường gian khổ vất vả của Bác. Một chữ tài tri ( mới biết) đơn giản vậy thôi mà ẩn chứa bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn và bao ý vị cuộc đời ở đó.

Trong thời gian mười bốn tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trái phép, Bác Hồ thường xuyên bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác khắp mười ba huyện của tỉnh Quảng Tây. Tay bị cùm, chân bị xích, đi trong sương gió lạnh buốt thấu xương hay trong nắng trưa đổ lửa, vượt dốc, băng đèo, lội suối… Từ thực tế đó, tác giả khái quát thành chuyện đi đường. Đó là một nhận thức, một nhận thức có tính khái quát rút ra từ thực tiễn, rất phù hợp với quy luật của nhận thức: “Thực tiễn - nhận thức - thực tiễn”.

Chữ “tài tri” ở câu thứ nhất và chữ “hựu” ở câu thứ hai ta thấy thấp thoáng nhân vật trữ tình, người tù Hồ Chí Minh đang cảm nhận, thấm thía suy ngẫm về nỗi gian lao triền miên của việc đi đường núi cũng như con đường cách mạng, con đường đời. Đến hai câu cuối, người đọc không chỉ cảm nhận được chất thi sĩ đầy lãng mạn mà còn thấy đuợc bản lĩnh cách mạng, ý chí kiên cường, cái nhìn lạc quan, tươi sáng của Bác.

Khi leo lên đến tận cùng, đứng trên đỉnh núi cao nhất (cao phong), phóng tầm mắt ra xa để “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”, người tù cộng sản Hồ Chí Minh không những mở rộng tầm nhìn mà cả trí óc, tấm lòng, cuộc đời cũng mở rộng. Người đi đường chủ động thu vào tầm mắt tất cả núi non trùng điệp với niềm vui vô hạn, niềm hạnh phúc dạt dào không gì sánh được, ấy là niềm vui vì chiến thắng được hoàn cảnh, chiến thắng được chính bản thân mình. Người không bị cái nhọc nhằn của thể xác, sự khắc nghiệt, khó khăn của hoàn cảnh bủa vây, lấn át đi ước mơ, khát vọng và lí tưởng mà ngược lại, đã vượt qua gian lao để khẳng định ý chí bền bỉ, sắt đá và niềm lạc quan, tin tưởng vào cuộc đời vào tiền đồ cách mạng phía trước. Quả thật tinh thần của người tù còn cao hơn núi.

Đó là tinh thần thép, là vẻ đẹp tâm hồn Bác. Người đó là chiến sĩ nhưng cũng là thi sĩ nên đã trải trái tim mình trên suốt chặng đường đi. Người ấy cũng là triết nhân nhưng không hề tư biện, không minh hoạ tư tưởng có sẵn bằng hình ảnh sáo mòn mà suy ngẫm trong sự sống đầy cảm xúc của chính mình. Điều đó làm cho bài thơ triết lý vẫn rung động lòng người và tư tưởng của nó đã đi sâu vào tâm trí người đọc.

3. Không những thế, hình tượng người đi đường còn đầy chiêm nghiệm, triết lý về cuộc đời. Giống như một số bài có cùng chủ đề như Từ Long An đến Đồng Chính, Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Trên đường đi, Chiều tối,… ở bài thơ này, Bác cũng ghi lại những điều cảm nhận được trên đường đi nhưng khác ở chỗ sự cảm nhận ấy đã được khái quát và nâng cao lên thành triết lí. Do đó, ngoài ý nghĩa hiện thực, bài thơ còn chứa đựng ý nghĩa tượng trưng thâm thúy.

Con đường ấy là con đường chuyển lao nhưng cũng là con đường cách mạng, con đường sự nghiệp, con đường đời. Đi đường đã gợi ra một chân lí: đường đời, đường cách mạng nhiều chông gai, thử thách, nhưng nếu quyết tâm vượt qua, con người nhất định sẽ đạt được những thắng lợi rực rỡ. Bài học đi đường thật là vô giá. Đích của bài thơ là một bài học, một quy luật: Muốn có tầm cao về tâm hồn, trí tuệ phải chịu khó vượt qua nhiều gian lao thử thách. Gian lao càng nhiều, thử thách càng cao thì tâm hồn, trí tuệ càng được nâng cao, mở rộng. Gian khó được coi là cái giá của tầm cao tư tưởng và tâm hồn.

Cao Bá Quát xưa cũng viết: “Bất kiến ba đào tráng/ An tri vạn lý tâm”. (Nếu không thấy ba đào hùng tráng, Thì biết sao được tấm lòng muôn dặm). Những tư tưởng lớn gặp nhau, nhưng Hồ Chí Minh nói giản dị hơn. Đi đường không thuộc loại thơ tức cảnh hoặc tự sự mà chủ yếu thiên về suy nghĩ, triết lí. Nhưng triết lí được thể hiện qua lời kể chuyện, tâm sự của Bác nên giàu sức thuyết phục. Phải chăng vì thế nên bài thơ được xem như lời tự khuyên mình của nhà cách mạng Hồ Chí Minh?

Tóm lại, bằng ngôn từ giản dị và nét bút tài hoa của người nghệ sĩ, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trên cái nền hoành tráng đó, nổi bật lên hình ảnh người đi đường vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, bản lĩnh, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Và trên hết Tẩu lộ (Đi đường) là một bài học triết lý sâu xa về đường đời. Bài thơ hấp dẫn, có sức sống lâu bền trong trái tim người đọc và ở lại đó như một điều tâm đắc, một điều chiêm nghiệm và từ đó trở thành phương châm sống, thành ý chí và hành động của mỗi con người./.

(Đọc Tẩu lộ của Hồ Chí Minh, Ngữ văn 8, tập hai, Nxb Giáo dục)

Theo Tiếng nói giáo viên

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ