Với vị trí đặc biệt, Cộng hòa Dân chủ Đức đã nhận được số lượng lớn thiết bị quân sự của Liên Xô, bao gồm hệ thống tên lửa phòng không S-200, vũ khí này theo nhận định của Tạp chí National Interest (NI) đã giúp ngăn chặn Thế chiến III.
Tờ NI viết: "Hệ thống tên lửa phòng không tầm xa S-200 mạnh mẽ, được thiết kế để chống lại các mối đe dọa từ máy bay ném bom và máy bay trinh sát tầm cao của phương Tây, lần đầu tiên vũ khí này được triển khai ở Đông Đức là vào thập niên 1980".
Ngay từ những năm 1950, các kỹ sư quân sự Liên Xô đã tìm cách khắc phục những điểm yếu thường xuyên bị máy bay Mỹ khai thác, thông qua những chiếc U-2 và B-58 Hustler. Ban đầu được hình thành như một hệ thống kế thừa các hệ thống SAM trước đó, S-200 đã chính thức ra mắt vào năm 1967.
Phiên bản đầu tiên của S-200 Angara có tầm bắn 160 km, còn biến thể Vega ra mắt năm 1970 kéo dài cự ly tác chiến lên tới 250 km.

Đến những năm 1980, giữa lúc Chiến tranh Lạnh leo thang, Liên Xô bắt đầu xuất khẩu S-200 sang các nước thuộc Khối Hiệp ước Warsaw, bao gồm Đông Đức, Tiệp Khắc và Hungary. Việc triển khai ở Cộng hòa Dân chủ Đức bắt đầu vào khoảng năm 1983.
Sự tiến bộ về mặt công nghệ của Vega đã biến nó thành một hệ thống phòng không tầm xa thực sự đáng gờm. Tờ TNI viết: "Nếu Thế chiến thứ III nổ ra, Đông Đức sẽ là mục tiêu chiến lược khó nhằn đối với lực lượng NATO".
Đến cuối những năm 1980, 4 tiểu đoàn S-200VE đã hoạt động tại Đông Đức. Được triển khai tại các khu vực biên giới, những hệ thống này cung cấp phạm vi phủ sóng lên đến 250 km trên toàn bộ lãnh thổ Đông Đức, thậm chí bao gồm cả một phần không phận Tây Đức.
Mỗi tổ hợp đều được trang bị nhiều radar để nhắm mục tiêu đồng thời, giúp tăng hiệu quả ứng phó với các cuộc tấn công từ phương Tây.
"Nếu những sự kiện diễn biến theo chiều hướng tích cực, lực lượng NATO được giao nhiệm vụ tấn công Đông Đức sẽ thấy mình rơi vào tình thế rất khó khăn", ấn phẩm NI khẳng định.
Tuy nhiên không có sự cố lớn nào xảy ra. Bằng cách ngăn chặn NATO từ xa, Đông Đức đã buộc các nhà hoạch định quân sự phương Tây phải điều chỉnh chiến thuật, cuối cùng dẫn đến bế tắc chiến lược và ngăn chặn chiến tranh, tờ National Interest kết luận.