Mải miết kiếm tìm, rồi họ cùng nhau dừng lại, gieo cấy giống lúa trời cho trên đồng ruộng Mường Lùng. Bởi thế, nếp Tú Lệ là “hạt ngọc” trời cho, không đâu sánh nổi.
Từng thưởng thức hương vị dẻo, thơm thấm lòng, thấm dạ của xôi ngũ sắc và bánh chưng cẩm ở các cửa hàng đây đó với lời chào mời: “Đặc sản từ hạt nếp tan Tú Lệ!”. Nay đến tận nơi mới vỡ ra, hạt nếp thơm ngon này là do người Thái, Mông, Tày, Mường... ở xã Tú Lệ, huyện Văn Chấn (Yên Bái) lọc ra từ đồng đất Mường Lùng (Mường Lò), từ tầng tầng, nấc nấc bậc thang chênh cheo ôm lấy núi, lấy đèo nhấp nhô trùng điệp, bốn mùa mây giăng, nắng ấp, gió núi lay phay...
Chiều buông. Khau Phạ (sừng trời), một trong tứ đại đỉnh đèo tuyệt tác nhất của đất trời Tây Bắc, sương giăng giăng. Sương la đà mịt mùng như hối thúc khách lãng du mau về Tú Lệ tá túc qua đêm. Đổ đèo, chúng tôi trở xuống Tú Lệ. Tầm mắt xuôi theo con suối Mường Lùng. Suối uốn eo đưa nước nuôi ruộng đồng thôn bản. Tầm mắt mỗi lúc như được nới rộng thêm ra... Thật hiếm có nơi nào ở vùng cao Tây Bắc lại bằng phẳng, rộng thênh thênh như ở thung lũng Mường Lùng...
Đêm vùng cao xuống nhanh như sập cửa. Phố núi se lạnh, vắng chênh chao... Theo giới thiệu của đồng nghiệp ở Báo Yên Bái, chúng tôi tìm đến nhà khách Thảo Quang. Ông chủ nhà khách tên Quang ở tuổi ngoại thất tuần, dáng vẻ, giọng nói hào sảng. Anh bạn đồng nghiệp bảo, ông là cuốn “từ điển sống” về văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán của thung lũng Mường Lùng... Gặp đồng hương, chén vơi chén đầy chiết ra từ nếp tan ngâm táo mèo bản địa khiến ông cứ lòng thòng kể duyên cớ xa xưa bỏ quê Cẩm Khê (Phú Thọ) lên đây lập nghiệp, tạo dựng nên cơ ngơi bề thế này. Giọng âm oang, ông ngâm nga: “Mường Lò gạo trắng nước trong/ Ai đi đến đó lòng không muốn về/ Nếp Tú Lệ, tẻ Mường Lò...”.
Vẻ hãnh diện, ông Quang cất lời, giọng khơi khơi như đong như đếm: Nếp Tú Lệ là trời cho. Không đâu sánh nổi. Xe cộ đổ về mua nếp, mua cốm, cất hàng nông thổ sản. Nếp Tú Lệ, cốm Tú Lệ khiến cuộc sống dân xã thay đổi ngày ngày. Quán xá cất lên. Xây dựng phát triển. Thương mại mở ra. Dịch vụ tăng tiến. Du lịch cộng đồng nhộn nhịp. Ông Quang khoe: Chúng tôi ăn ra làm nên là nhờ thế núi, thế đèo. Tú Lệ nằm lọt giữa ba ngọn núi là Khau Phạ (Sừng trời), Khau Thán (Sừng than), Khau Chăn (Sừng dốc) chở che cho nên dân bản bình yên. Mấy mươi năm trước, Tú Lệ nghèo lắm, khốn khó bởi đâu đâu cũng trồng anh túc. Anh túc được mùa thì dân tàn tạ. Nay nhờ biết nhân rộng giống lúa trời ban, Tú Lệ mới đổi đời, mở mày mở mặt với thiên hạ!
***
Sáng sớm ở Tú Lệ, rảo bước một vòng đã thấy mùi xôi nếp thơm từ cổng chợ trung tâm thơm ra. Xôi đựng trong thúng, đặt trên mâm, trên mẹt của những bà, những cô gái Thái xinh xắn áo cóm, khăn piêu vồn vã mời khách. Kề hàng xôi là những quán gà nướng, thịt xiên lợn cắp nách xèo xèo trên bếp than rực hồng. Rượu cuốc lủi, táo mèo, sâu chít bình to, hũ nhỏ đủ đầy... Bên đường trung tâm xã, nhà hàng ẩm thực cũng nối nhau đủ món chế biến từ gạo nếp tan như: Cốm, cháo cốm vịt, xôi nếp ngũ sắc, cơm lam, rượu nếp như nét riêng biệt của xứ núi...
Chúng tôi gặp Hoàng Văn Soàn, người dân tộc Thái. Soàn điển trai, mắt trong, tai rộng, cằm tròn, sống mũi thẳng hiển hiện nét thông minh, lịch lãm. Vốn là kỹ sư nông lâm nghiệp nên khi chúng tôi hỏi lai lịch của lúa nếp tan, anh kể tường tận. Từ xưa xa người dân Tú Lệ vẫn truyền nhau câu chuyện Then (trời) cho người Thái ở ven rừng Tây Bắc này một loại hạt giống và nhắc nhở phải tự tìm đất gieo cấy.
Mải miết kiếm tìm, rồi họ cùng nhau dừng lại, gieo cấy giống lúa trời cho trên đồng ruộng Mường Lùng (Tú Lệ). Giống lúa trưởng thành phân ra 2 loại: Khẩu tan chậu (nếp - tan sớm) và khẩu tan lả (nếp - tan muộn). Nhưng khẩu tan lả dài ngày, cao cây, hay đổ nên bị loại. Nếp tan xem như hạt ngọc quý trời cho nên dân truyền dạy nhau gìn giữ. Mùa lúa chín, họ chọn những bông to, hạt mẩy bó thành khum, phơi khô cất cao làm giống. Khi thấy lúa trổ hoa mà bông thấp bông cao ấy là dấu hiệu của sự thoái hóa, người ta lại kỳ công chọn lại từng bông để nhân giữ...
Nhưng quan trọng vẫn là khoa học canh tác. Soàn bảo, năm 2004, Tú Lệ được Viện Nghiên cứu giống cây trồng phát triển phía Bắc thực hiện công trình phục tráng giống lúa... Năm 2008 được cấp thương hiệu “Nếp Tú Lệ”. Nếp Tú Lệ dẻo, thơm, ngon đậm đà. Hơn 400 ha ruộng lúa nước, phần đông đều cấy nếp tan. Ấy là chưa kể đến những chân ruộng bậc thang cũng cấy nếp.
Giọng chân tình, Soàn bảo: Gìn giữ và nhân rộng hạt gạo dẻo thơm không chỉ bằng kỹ thuật tiên tiến trong gieo cấy mà còn bằng cả tín ngưỡng văn hóa, đời sống tâm linh. Điều này thể hiện trong các lễ hội như Lễ hội Cơm mới và Lễ hội Lồng tồng như một phong tục đẹp của các dân tộc. Phẩm lễ là cơm, xôi gạo mới; thực phẩm là thịt lợn, ngan, gà, vịt... dâng tạ kính lễ tổ tiên, thần linh chúa đất đã phù hộ cho con cháu có được mùa màng bội thu, no ấm,... cầu xin vụ mới dồi dào, tốt tươi hơn nữa. Ấy là dân lễ. Nay chính quyền xã (do Chủ tịch UBND là chủ lễ) đứng ra tổ chức lễ - hội cho cả cộng đồng. Nhờ đất, nhờ trời, nhờ lao động chăm chỉ, ứng dụng khoa học kỹ thuật cho nên có hạt lúa chắc mẩy, hạt cơm dẻo thơm nhằm quảng bá cho nếp tan Tú Lệ phát triển, lan xa, tỏa rộng...
Cùng với lễ hội cơm mới, hằng năm Tú Lệ còn tổ chức thi duyên dáng trang phục dân tộc, thi gói bánh chưng, giã cốm nhằm chọn lựa đơn vị đáng tin cậy để cấp giấy phép mở cửa hàng, cửa hiệu cho 11 thôn, bản bán các mặt hàng sản xuất từ gạo, nông sản và hàng thổ cẩm… Nghe tôi hỏi, nguyên cớ nào khiến hạt nếp Tú Lệ dẻo thơm, ngon xôi, ngon bánh, Soàn hóm hỉnh: Tại trời! Tại đất! Tại khí hậu trong lành! Tại biên độ nóng lạnh đêm ngày! Tại canh tác, chăm bón thuần chất hữu cơ!... Nhiều món ngon xuất phát từ hạt nếp Tú Lệ. Hạt gạo nếp Tú Lệ, dù là trắng hay cẩm thì vẫn cứ dẻo thơm, hương vị không pha trộn với hạt nếp xứ khác...
Bánh chưng nếp cẩm còn gọi là bánh chưng đen như một nét ẩm thực riêng có của người Thái. Tết, lễ cũng như cúng bái tổ tiên, trên mâm cỗ không thể thiếu đĩa bánh đặc trưng này. Dân Tú Lệ khi làm bánh chưng cũng kỹ lưỡng như làm ruộng, cấy nếp. Gói bánh phải bằng lá dong bánh tẻ, rửa sạch, lau khô. Gạo nếp ngâm, đãi kỹ, để ráo rồi trộn đều với bột than của cây hoa vừng đen hoặc bột cây núc nác.
Nhân bánh là thịt ba chỉ lợn mán thái mỏng, độn với đậu xanh, pha với gia vị hành củ, bột tiêu. Bánh luộc phải mất từ 8 đến 9 giờ đồng hồ, đun bằng củi thân gỗ chắc, giữ bền lửa và than để bánh chín đều, chín kỹ. Khi vớt bánh phải thả vào chậu nước, rửa sạch nhớt ở vỏ lá, trước khi nén rồi treo cất. Lát bánh cắt ra rất bắt mắt, nom hệt như vành khuyên, vỏ ngoài tím thẫm nguyên sắc nếp cẩm. Bánh chưng cẩm dẻo thơm, tinh khiết; khi ăn cảm nhận như có mùi vị của nắng, của gió, của nước suối, của núi non, hoa lá quyện với mây trời thanh trong của Tú Lệ!
Ăn xôi ở Tú Lệ, do người Tú Lệ nấu, thấy ngon lạ lùng. Hạt xôi bóng, mẩy căng, ngậy thơm, khi nhai nghe như tiếng hạt nổ nhẹ, thoang thoảng hương của lúa mới, của vị cám gạo xay... Hỏi bí quyết, Hoàng Văn Soàn bật cười: Giữ bí quyết thì lợi gì đâu. Tất cả là do hạt gạo. Hạt nếp mới gặt, nếp non khi đồ xôi hương vị cũng rất khác nhau. Xôi béo ngậy, thơm cũng do hương hành hoa phi mỡ trộn thấm vào xôi...
***
...Bữa cơm tối chia tay với chủ nhà nghỉ Thảo Quang để bắt xe đêm về xuôi thì lại được thưởng thức xôi ngũ sắc. Người đem xôi tới theo hàng đặt của chủ nhà nghỉ là một phụ nữ Thái, tuổi trung niên. Chị mặc trang phục truyền thống, tấm áo cóm khít khao da thịt, tính tình niềm nở. Thấy chúng tôi là khách đường xa tới, chị đon đả mời chào. Ngỏ ý muốn hiểu cách làm xôi ngũ sắc, chị cặn kẽ cứ như chúng tôi là những kẻ học nghề.
Chị giảng giải ý nghĩa màu của xôi, rằng: Sắc đỏ tượng trưng cho khát vọng, màu xanh tượng trưng cho núi rừng, tím tượng trưng cho trời đất, màu vàng là sắc thái của ấm no, trắng là biểu tượng của thủy chung trong trắng. Các cụ cao niên thì nói rằng, năm màu (xanh, đỏ, tím, vàng, trắng) là tượng trưng cho thuyết âm dương ngũ hành. Còn cán bộ xã lại bảo: Năm màu của xôi tượng trưng cho tinh thần đoàn kết của các dân tộc anh em (chả là Tú Lệ có năm dân tộc: Thái, Tày, Mông, Mường và Kinh).
“Màu của xôi được tạo ra từ các loại cây, lá, củ, quả của rừng, của núi nên tính lành, hương vị hấp dẫn thấm quyện với hương cơm nếp tan dẻo thơm của Tú Lệ khiến du khách đã ăn là nhớ”! Vẫn một vẻ hồn nhiên mộc mạc, khéo giấu nụ cười trong ánh mắt, chị nói cốt để khoe tiếp với chúng tôi về hương nếp trồng cấy ở Mường Lùng chắt ra từ ruột núi khó đâu bì nổi. Chị mượn cây, mượn suối, mượn hạt nếp thơm lạ thơm lùng để đón đưa, mời chào, để giữ chân, để ngỏ lời gặp lại. Lời thương lời nhớ gửi vào lá, gói vào lá với những cây, những củ, quả... cho xôi dậy màu thơm mãi là thơm...
Những chuyến xe đêm nối nhau dừng lại Tú Lệ để mua “hạt ngọc trời” về xuôi. Chở hương nếp tan của thung lũng Mường Lùng đến mọi miền đất nước... Đêm Mường Lùng chênh chao, liêu xiêu bởi hương nếp chiết ra đựng trong chai, trong hũ, từ xôi ngũ sắc đặt trong mâm, trong mẹt. “Rượu cứ uống, mời cả trăng cùng uống/ Đêm giăng mắc khó mà dứt được/ Đừng tưởng núi rừng không hào hoa/ Vui cho hết kẻo về rồi lại tiếc” (thơ Ngọc Bái).