Giải pháp giúp học sinh THCS giải tỏa tâm lý căng thẳng

GD&TĐ - Việc giải tỏa tâm lý căng thẳng cần nhiều giải pháp khác nhau giúp học sinh có được sức khỏe tinh thần tốt nhất để phát triển toàn diện.

Học sinh dự thi vào lớp 10 tại Hà Nội. Ảnh tư liệu: Khôi Nguyên.
Học sinh dự thi vào lớp 10 tại Hà Nội. Ảnh tư liệu: Khôi Nguyên.

Nhà giáo ưu tú Hoàng Thanh Thủy – Hiệu trưởng Trường THCS Nguyễn Trường Tộ (phường Ô Chợ Dừa, Hà Nội) vừa đưa ra kết quả nghiên cứu về thực trạng và những giải pháp để giúp học sinh THCS tại Hà Nội ứng phó với tình trạng căng thẳng tâm lý.

Những con số đáng suy ngẫm

Sức khỏe tinh thần đóng vai trò then chốt trong sự phát triển toàn diện và chất lượng cuộc sống của học sinh. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), căng thẳng và rối loạn lo âu dự báo sẽ là gánh nặng bệnh tật hàng đầu toàn cầu vào năm 2030. Đặc biệt, lứa tuổi THCS là giai đoạn chuyển tiếp nhạy cảm về tâm sinh lý, khiến học sinh dễ bị tổn thương bởi các áp lực học đường và xã hội.

Mặc dù các nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra tỷ lệ căng thẳng đáng lo ngại ở nhóm tuổi này, nhưng tại Việt Nam, dữ liệu nghiên cứu vẫn còn hạn chế. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm mô tả thực trạng và cách ứng phó với căng thẳng tâm lý ở học sinh THCS tại Hà Nội, từ đó cung cấp cơ sở khoa học cho các giải pháp can thiệp hiệu quả.

Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 394 học sinh THCS trên địa bàn Hà Nội từ tháng 3/2025. Công cụ thu thập thông tin bao gồm bảng hỏi về thông tin chung, thực trạng căng thẳng và biện pháp ứng phó.

Mức độ căng thẳng được đánh giá bằng Thang đo Mức độ Căng thẳng (PSS-10) (Perceived Stress Scale), đo lường mức độ căng thẳng trong 30 ngày qua với thang điểm từ 0-40, được phân loại thành 3 mức: Nhẹ (0-13 điểm), Trung bình (14-26 điểm) và Cao (27-40 điểm). Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê với các phép kiểm định mô tả và suy luận (T-test, ANOVA) để phân tích sự khác biệt giữa các nhóm khách thể.

to-1.jpg
Thực trạng mức độ căng thẳng và ứng phó với căng thẳng ở học sinh THCS tại Hà Nội.

Kết quả tại Biểu đồ 1 cho thấy phần lớn học sinh chịu mức độ căng thẳng vừa phải (61,9%), tiếp theo là mức thấp (21,3%) và mức cao chiếm 16,8%. Điều này phản ánh rằng dù đa số không ở mức báo động, nhưng học sinh vẫn đang đối mặt với những áp lực đáng kể trong học tập và cuộc sống.

Tỷ lệ căng thẳng cao (16,8%) trong nghiên cứu này tương đồng với các công bố quốc tế của Hinkle L.E. (1974), Cassidy T. (1999) và nghiên cứu trong nước của Võ Minh Đức (2023) (khoảng 15-20%). Đồng thời, tỷ lệ căng thẳng mức vừa cũng khá sát với kết quả của Trần Văn Toản (2024 - 63,5%). Tuy nhiên, số liệu này cao hơn đáng kể so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hằng Phương (2019 - 7,5%).

Sự chênh lệch này có thể xuất phát từ sự khác biệt về phương pháp chọn mẫu, bối cảnh kinh tế - xã hội tại thời điểm nghiên cứu, song vẫn khẳng định tính cấp thiết của việc xây dựng các chương trình can thiệp tâm lý học đường.

Những giải pháp thực tế

to-3.jpg
to-4.jpg
Bảng so sánh sự khác biệt về biểu hiện căng thẳng ở học sinh theo giới tính (trong đó: ĐTB – Điểm trung bình; ĐLC – Độ lệch chuẩn; P- Xác suất).

Kết quả kiểm định cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ căng thẳng giữa nam và nữ (p<0.05), trong đó học sinh nữ có biểu hiện căng thẳng cao hơn (Bảng 1). Điều này phù hợp với các đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và áp lực xã hội về hình ảnh bản thân, cũng như xu hướng dễ bộc lộ cảm xúc ở nữ giới, tương tự kết quả của Hồ Hữu Tính (2010) và Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2022).

Tuy nhiên, nghiên cứu ghi nhận không có sự khác biệt ý nghĩa (p>0.05) ở các khía cạnh về năng lực tự chủ như: sự tự tin xử lý vấn đề, cảm giác kiểm soát cuộc sống và kiểm soát sự khó chịu. Điều này chỉ ra rằng, mặc dù nữ giới trải nghiệm cảm xúc căng thẳng nhiều hơn, nhưng năng lực ứng phó và sự tự tin trong giải quyết vấn đề của cả hai giới là tương đương nhau. Đây là tín hiệu tích cực và là cơ sở quan trọng để thiết kế các hoạt động hỗ trợ chung cho cả hai giới.

to-2.jpg
Các cách ứng phó với căng thẳng học sinh lựa chọn.

Về chiến lược ứng phó, học sinh chủ yếu lựa chọn các hình thức giải trí và hoạt động cá nhân (Bảng 2). Phổ biến nhất là "Xem tivi, đọc truyện" (69,6%; ĐTB=1.93), được xem là kênh giải tỏa áp lực dễ tiếp cận và hiệu quả. Đáng chú ý, nhóm hành vi "Chơi game" (51,8%; ĐTB=1.57) và "Ngồi một mình, tĩnh lặng" (49,7%; ĐTB=1.55) cũng chiếm tỷ lệ cao. Trong khi việc tìm không gian riêng phản ánh nhu cầu khẳng định tính độc lập của lứa tuổi vị thành niên thì việc chơi game cần được giám sát để tránh nguy cơ gây nghiện.

Ngược lại, giải pháp mang tính chủ động và chuyên sâu như "Tham gia các lớp kỹ năng sống" lại có tỷ lệ thấp nhất (8,1%; ĐTB=0.36). Thực trạng này cho thấy nhà trường cần đẩy mạnh truyền thông và tổ chức các chương trình kỹ năng hấp dẫn hơn để khuyến khích học sinh chuyển dịch từ các biện pháp ứng phó thụ động sang chủ động.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn học sinh THCS tại Hà Nội đang trải qua mức độ căng thẳng trung bình, tuy nhiên tỷ lệ học sinh có mức căng thẳng cao vẫn chiếm con số đáng kể và cần được quan tâm. Về các yếu tố liên quan, học sinh nữ có biểu hiện căng thẳng cao hơn nam giới (p<0.05), trong khi sự khác biệt theo khối lớp chưa thực sự rõ rệt.

Đối với chiến lược ứng phó, học sinh ưu tiên các hình thức giải trí (xem tivi, đọc truyện) và tìm không gian tĩnh lặng để tự cân bằng, thay vì tham gia các hoạt động phát triển kỹ năng sống hay tìm kiếm hỗ trợ chuyên nghiệp. Thực trạng này nhấn mạnh sự cần thiết của việc tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường trong việc xây dựng các chương trình hỗ trợ tâm lý và trang bị kỹ năng ứng phó chủ động cho học sinh.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ