Trong những năm đó, Trung Quốc đã phân định đường biên giới trên đất liền với nhiều nước láng giềng và theo đuổi giải pháp phát triển “đôi bên cùng có lợi”.
Đó là nhận định của nhà phân tích Brad Glosserman - Giám đốc Điều hành Diễn đàn Thái Bình Dương của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) trong bài viết đăng trên tờ The National Interest ngày 20/5.
Cũng theo bài báo, sau này, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã trở nên gây gổ hơn, với việc Trung Quốc công khai “cưỡng bức”, đẩy Philippines ra khỏi nhiều vùng biển tranh chấp; thúc ép Tokyo thừa nhận có tranh chấp đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư vốn thuộc quyền quản lý của Nhật Bản trên thực tế.
Tuy nhiên, chỉ gây sự với Manila và Tokyo là chưa đủ, Bắc Kinh còn đưa giàn khoan dầu Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam hồi đầu tháng này.
Để hỗ trợ cho hành động xâm lấn nói trên, Trung Quốc cử hàng trăm tàu, trong đó có cả tàu chiến, vào vùng biển Việt Nam để “bảo vệ” - một sự leo thang đáng kể xét về khía cạnh tham gia của giới quân sự trong tranh chấp lãnh thổ.
Trước đó, Trung Quốc đã ngang nhiên đưa nhiều tàu vào vùng biển mà Malaysia tuyên bố chủ quyền và chỉ trích nỗ lực tìm kiếm chiếc máy bay mang số hiệu MH370 mất tích của Malaysia Airlines, trên đó có hơn 150 công dân Trung Quốc.
Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển gần Indonesia, đẩy Jakarta khỏi lập trường trung lập và trở nên cứng rắn hơn trong các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Gần đây nhất, tin tức báo chí cho hay nhiều tàu Trung Quốc đã lợi dụng việc Cảnh sát Biển Hàn Quốc bị bận rộn bởi thảm họa chìm phà Sewol để xâm nhập vùng biển Hàn Quốc và đánh bắt cá bất hợp pháp.
Trung Quốc đang cố tìm cách duy trì ảnh hưởng tại Myanmar, thậm chí bằng cách cung cấp vũ khí cho các nhóm nổi dậy chống Chính phủ nước này.
Trong khi đó, Trung Quốc phải đối mặt với nhiều vấn đề trong nước và cần một môi trường quốc tế hòa bình ổn định để nước này có thể tập trung giải quyết những vấn đề đang ngày càng trở nên nhức nhối.
Trước tiên, vấn nạn tham nhũng đang đe dọa tính chính đáng của chính quyền. Tiếp đến, nền kinh tế Trung Quốc đã chững lại sau nhiều thập kỷ tăng trưởng hai con số.
Nền kinh tế đó cần phải điều chỉnh, đi kèm với những lo ngại về khu vực tài chính khốn khổ với nhiều bong bóng bất động sản. Ô nhiễm không khí, nước và ô nhiễm đất đai đã lên tới mức đe dọa khả năng tồn tại của Nhà nước.
Tình trạng khủng bố gia tăng ở trong nước một phần có liên quan đến chính sách mạnh tay của Bắc Kinh đối với các cộng đồng thiểu số. Tình trạng bất ổn liên miên - với 200.000 vụ mỗi năm đã khiến cho ngân sách dành cho Cảnh sát vũ trang lớn hơn cả ngân sách dành cho quân đội.
Trong môi trường bất ổn này, việc Trung Quốc tìm cách gây gổ với rất nhiều nước láng giềng quả là không thể nào hiểu nổi.
Việc Trung Quốc liên tục tranh chấp biển đảo đã làm dấy lên tình cảm chống Trung Quốc ở các nước láng giềng. Danh sách các nước đang thách thức Bắc Kinh bao gồm “các cầu thủ lớn” trong khu vực Đông Nam Á.
Lo ngại về sự bành trướng của Trung Quốc dẫn đến việc nhiều nước Đông Á và Đông Nam Á ký kết hiệp định hợp tác quốc phòng mới với các cường quốc ngoài khu vực và chi tiêu quốc phòng nhiều hơn.
Đối với Bắc Kinh, diễn biến đáng báo động nhất là nhiều chính phủ trong khu vực tăng cường quan hệ với Washington và chấp nhận sự hiện diện của Mỹ trong khu vực.
Hãng tin Reuters bình luận: Trung Quốc đã có động thái khiêu khích mới nhất bằng cách triển khai một giàn khoan dầu khổng lồ đến Biển Đông. Rõ ràng, họ (Trung Quốc) biết chắc là Việt Nam sẽ phải phản ứng và Trung Quốc đã chuẩn bị bằng cách gửi theo hơn 100 tàu, trong đó có cả tàu chiến của hải quân để bảo vệ giàn khoan.
Hai bên đang vướng vào một bế tắc nguy hiểm khi liên tục va chạm trên biển, sử dụng vòi rồng và các hành vi thách thức khác từ phía Trung Quốc.
Việc Bắc Kinh triển khai giàn khoan dầu là để cố gắng chứng minh rằng Việt Nam đang tham gia một cuộc chơi “tất cả cùng thua” (lose-lose) khi chống lại những mong muốn và áp đặt của Trung Quốc.
Nếu Hà Nội bỏ qua các động thái của Bắc Kinh, giàn khoan này sẽ lập tức trở thành một bằng chứng chủ quyền mới trên biển để củng cố cho tuyên bố pháp lý của Trung Quốc thành hiện thực.
Nếu chống lại, lực lượng kiểm ngư và hải quân Việt Nam sẽ bị kéo vào một cuộc đấu tranh kéo dài và tốn kém trước sức mạnh của Trung Quốc.
Và nếu cuộc đấu tranh ngoài biển của Việt Nam tiếp tục châm ngòi cho các cuộc biểu tình biến tướng thành bạo lực bởi chủ nghĩa dân tộc giận dữ của người dân thì niềm tin, sự đầu tư của quốc tế ở Việt Nam, chứ không phải ở Trung Quốc, sẽ mất. Theo tính toán của Bắc Kinh, dù sự việc diễn ra theo cách nào thì Việt Nam cũng là phía thua cuộc.
Ngoài sự kiện giàn khoan, các hành động mà Trung Quốc còn tiến hành song song bao gồm việc xây dựng các công trình trên các rạn san hô và bãi cạn trong vùng tranh chấp và hiện bị Trung Quốc chiếm đóng; tuần tra và tiến hành các nghi lễ trên các đảo/quần đảo đang được các quốc gia khác tuyên bố chủ quyền như Malaysia; ra lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương đối với các quốc gia khác trên vùng biển tranh chấp nhưng lại “thả rông” cho ngư dân của mình; và nhiều hơn nữa.
Song song với những hành động đó, Trung Quốc một mặt vẫn tiếp tục tham gia vào các cuộc đàm phán quy tắc ứng xử cùng với các quốc gia bị nước này bắt nạt. Mục đích là để ngăn chặn xung đột và ngăn cấm chính các loại hành vi mà Trung Quốc đang thực hiện ở trên.
Đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, việc cam kết bảo vệ những gì mà họ xem là lãnh thổ của mình cực kỳ có ý nghĩa vì hai lý do. Trước hết, quốc gia này muốn “dạy” cho các quốc gia hàng hải nhỏ hơn ở Đông Nam Á rằng họ đang tốn sức trước việc chống lại các tuyên bố của Trung Quốc. Về bản chất, Trung Quốc muốn nói rằng: “Chúng tôi sẽ làm điều đó bằng mọi cách, bất chấp dễ dàng hay khó khăn”.
Thêm vào đó, Trung Quốc thừa biết tuyên bố đường chín đoạn của mình bao trùm hầu hết Biển Đông là không có cơ sở theo luật pháp quốc tế. Bằng cách tích cực tiến hành các hành động như hiện tại, Bắc Kinh có thể thiết lập một hồ sơ theo dõi sự hiện diện và các hoạt động.
Hồ sơ này sẽ giúp Trung Quốc xác định quan điểm, lập trường của mình tốt hơn bao giờ hết khi cần làm rõ tuyên bố của mình phù hợp với luật pháp quốc tế, theo đúng lời kêu gọi của Hoa Kỳ và các quốc gia khác.
Nhưng chiến lược này là quá táo bạo và không khôn ngoan. Hành động của Bắc Kinh mang rủi ro đáng kể, luôn phải cân bằng giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn.
Sự căng thẳng đó của lực lực không quân và hải quân trong các cuộc đối đầu ở Biển Đông có thể phá vỡ kế hoạch và châm ngòi cho một sự cố dẫn đến leo thang quân sự.
Các quốc gia như Việt Nam cũng có thể sẽ tìm một chỗ đứng ngả về một đồng minh khác và chọn cách chiến đấu đến cùng chứ không phải chùn bước trước áp lực của Trung Quốc để mất chủ quyền của mình.
Quyết định như vậy sẽ rất tai hại cho Trung Quốc. Trong Chiến tranh Biên giới với Việt Nam hồi năm 1979, khoảng 60.000 người thiệt mạng.
Trung Quốc không có được bất cứ điều gì từ cuộc xung đột đó, thậm chí chính phủ nước này sẽ bị đổ lỗi cho việc làm "trật ray con đường hướng tới hòa bình lâu dài và sự tiến bộ của châu Á".
Thậm chí ngay cả khi tránh né chiến tranh, Bắc Kinh có thể cường điệu hóa sự việc lên mức độ mà các quốc gia Đông Nam Á có thể sẽ bỏ qua sự lịch sự và cùng nhau liên kết để chống lại sự thống trị của một Trung Quốc đang trỗi dậy.
10 thành viên của ASEAN vẫn chưa có được sự gắn kết nhất định, nhưng ASEAN đang phát triển mạnh mẽ và đang chào đón vai trò lớn hơn của Mỹ trong khu vực, một phần là do sự cứng rắn của Trung Quốc.
Giờ đây, thông điệp mà Bắc Kinh nhắc đi nhắc lại có thể hiểu rằng: “Đừng đùa với chúng tôi, vì như thế, các bạn đang đùa với lửa”. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nghĩ rằng ngọn lửa chỉ cháy đối thủ của mình. Họ sai, "đốm lửa nhỏ" ở Biển Đông hoàn toàn có thể sẽ cháy lan về Bắc Kinh.