Đòi hỏi chuyển từ ‘lượng’ sang ‘chất’ về công bố quốc tế trong trường đại học

GD&TĐ - Phần lớn công bố quốc tế của nước ta xuất phát từ hệ thống giáo dục đại học, đóng góp khoảng 70% số bài trên WoS, 90% trên Scopus của cả nước.

Sinh viên nghiên cứu khoa học tại Trường ĐH Hùng Vương (Phú Thọ).
Sinh viên nghiên cứu khoa học tại Trường ĐH Hùng Vương (Phú Thọ).

Bộ GD&ĐT cho biết, hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học những năm qua có bước phát triển rõ nét. Số bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế uy tín tăng nhanh 12-15%/năm.

Giai đoạn 2018-2022, Việt Nam có 76.672 bài báo Scopus, riêng từ năm 2020 trở đi mỗi năm đều trên 18.000 bài.

Năm 2022, tổng số bài báo quốc tế của Việt Nam đạt khoảng 18.500 (Scopus), năm 2023 tăng gần chạm mốc 20.000 bài/năm, năm 2024 đạt trên 22.000 bài.

Nhờ cú hích đó, tỷ lệ công bố quốc tế của Việt Nam tuy còn khiêm tốn so với các cường quốc (chỉ khoảng 1,8% so với Trung Quốc, gần 2,7% so với Mỹ năm 2023) nhưng đã tăng gấp đôi so với năm 2018.

Phần lớn công bố quốc tế của nước ta xuất phát từ hệ thống giáo dục đại học, đóng góp khoảng 70% số bài trên WoS (cơ sở dữ liệu của Institute for Scientific Information, Hoa Kỳ) và 90% trên Scopus (cơ sở dữ liệu của nhà xuất bản Elsevier, Hà Lan) của cả nước.

Các công bố quốc tế của Việt Nam trải rộng trên 27 chuyên ngành thuộc 4 lĩnh vực chính (Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật-Công nghệ, Khoa học đời sống-Y dược, Khoa học xã hội).

Cơ sở giáo dục đại học có vai trò chủ lực trong nghiên cứu khoa học. Theo đó, Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh dẫn đầu với hơn 3.000 bài báo quốc tế năm 2024. Tiếp sau là ĐH Bách khoa Hà Nội và ĐH Quốc gia Hà Nội, mỗi trường khoảng 1.500-1.600 bài quốc tế/năm gần đây.

Chẳng hạn, ĐH Bách khoa HN năm 2020 có 491 bài (đứng đầu khối trường trực thuộc Bộ GD&ĐT), đến 2023-2024 đã xấp xỉ 1.500 bài.

ĐH Quốc gia Hà Nội cũng tăng trưởng đều đặn khoảng 15%/năm, từ 1.160 bài (2020) lên gần 1.600 bài (2024). ĐH Cần Thơ đạt trên 1.000 bài năm 2024.

Đặc biệt, các trường đại học ngoài công lập định hướng nghiên cứu cũng ghi dấu ấn (như ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Phenikaa, ĐH Duy Tân… mỗi năm vài trăm bài quốc tế), cho thấy sự vươn lên mạnh mẽ của khối tư thục.

Mặc dù đạt thành tựu đáng ghi nhận, hoạt động nghiên cứu khoa học tại nhiều trường vẫn đối mặt thách thức. Bộ GD&ĐT nhận xét tốc độ tăng công bố quốc tế đang chậm lại, đòi hỏi các trường phải chuyển từ “lượng” sang “chất”.

Việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn hạn chế: nhiều sản phẩm từ đề tài Nhà nước chưa đưa ra thị trường do vướng quy định và thiếu doanh nghiệp tiếp nhận. Nguồn lực tài chính cho khoa học ở trường đại học tuy tăng nhưng vẫn cần sử dụng hiệu quả.

Đặc biệt, khoảng cách về năng lực nghiên cứu giữa các trường rất lớn. Chỉ một số ít trường top đạt tầm khu vực, trong khi nhiều trường khác số lượng công bố ít, chưa hình thành được nhóm nghiên cứu mạnh. Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ vẫn là “điểm nghẽn” khi nguồn thu từ hoạt động này tại đa số trường rất thấp.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ