Đoàn Tuấn và những trang viết hồi sinh cái chết

GD&TĐ - 'Huyền thoại tuổi thanh xuân' là cuốn sách mới nhất của nhà văn Đoàn Tuấn (NXB Văn học, 2023).

Cuốn sách 'Huyền thoại tuổi thanh xuân' của nhà văn Đoàn Tuấn. Ảnh: NVCC.
Cuốn sách 'Huyền thoại tuổi thanh xuân' của nhà văn Đoàn Tuấn. Ảnh: NVCC.

“Huyền thoại tuổi thanh xuân” là cuốn sách mới nhất của nhà văn Đoàn Tuấn (NXB Văn học, 2023). Với gần 200 trang in, tiểu thuyết kể lại hành trình của một du học sinh trẻ người Việt tìm kiếm tung tích 6 chiến sĩ Việt Nam hy sinh trong trận chiến bảo vệ Moskva, mùa Đông năm 1941.

Trong 6 chiến sĩ Việt Nam tham gia trận đánh bảo vệ Thủ đô Moskva năm đó có 4 ông quê ở xã Kim Liên, Nam Đàn (Nghệ An) là: Vương Thúc Tình, sinh năm 1903; Lý Nam Thanh, sinh năm 1908; Lý Thúc Chất, sinh năm 1910; Lý Anh Tạo, sinh năm 1910. Còn ông Lý Phú San, sinh năm 1900, quê xã Tân Ước, Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội) và ông Lý Văn Minh, sinh năm 1912, quê xã Hải Lộc, Hậu Lộc (Thanh Hóa).

6 người lính ấy thì 4 người hy sinh tại mặt trận, một người hy sinh tại Trung Quốc năm 1942 (ông Lý Thúc Tình). Một người còn sống qua chiến tranh, mất năm 1980 (ông Lý Phú San, mộ ông và vợ hiện nay ở ngoại ô Moskva).

Thời điểm năm 1941, người lớn tuổi nhất trong số họ là 41 tuổi, người trẻ nhất là 29 tuổi. Trước khi hy sinh, họ chưa kết hôn, cũng không có một tấm ảnh để lại. Họ là 6 hạt bụi trong lịch sử rộng lớn.

Hơn 80 năm đã trôi qua đồng nghĩa với bao bãi bể nương dâu. Làm thế nào để tìm được 6 hạt bụi ấy? 6 hạt bụi là 6 cuộc đời, 6 thân phận, gắn với bao nỗi đau, niềm khắc khoải, sự chờ đợi đến vô vọng của 6 gia đình.

“Bản giao hưởng của ngàn hoa Xuân dâng trào”

Nhà văn Đoàn Tuấn. Ảnh: NVCC.

Nhà văn Đoàn Tuấn. Ảnh: NVCC.

Bắt đầu từ một lời hứa, sau một năm tìm kiếm, tưởng “mò kim đáy bể”, qua các đầu mối, các cuộc gặp gỡ tiếp xúc với những nhà sử học, người thanh niên trẻ hình dung và tái hiện được phần nào hành trình của 6 chiến sĩ.

Có thể họ là những sinh viên đã theo học trong hệ thống trường đảng ở Moskva. Khi chiến tranh vệ quốc nổ ra, họ xung phong vào Lữ đoàn Ombson, được biên chế về trung đoàn tình nguyện quốc tế.

Sáng ngày 7/11/1941, trong trang phục duyệt binh của Hồng quân Liên Xô, họ trang nghiêm, đĩnh đạc bước đi trên Quảng trường Đỏ. Đó là lần đầu tiên họ cầm súng đi qua quảng trường, cũng có thể là lần cuối cùng. Sau cuộc duyệt binh này, họ trở về đơn vị, đi thẳng ra chiến trường, đối mặt với kẻ thù.

6 người lính, 6 câu chuyện. Người lính trinh sát Vương Thúc Tỉnh thoát chết ngoài mặt trận, nhưng khi về nước nhận nhiệm vụ mới (năm 1942), dừng chân ở Quảng Châu, chỉ vì hành động gọi thêm một đĩa đậu phụ rán, anh lọt vào mắt bọn Hán gian và mật thám Nhật.

Anh bị giải ra pháp trường. Chúng bịt mắt anh lại. Tự tay anh tháo băng bịt mắt. Anh muốn trước khi chết được ôm cả bầu trời - thiên nhiên - con người vào trong tầm mắt.

Xung phong vào đơn vị trượt tuyết, người lính Lý Thúc Chất hy sinh trong trận đánh đêm 21/11/1941 tại làng Khludnevo. Bọn Đức đang chiếm làng này, làm bàn đạp tấn công Moskva. Đêm ấy, nhiệt độ xuống âm 28 độ C. Đại đội trượt tuyết chỉ với súng trường và lựu đạn đã chiến đấu chống lại vòng vây phát xít Đức với xe tăng và hỏa lực mạnh gấp nhiều lần.

Lý Thúc Chất bị một viên đạn của kẻ địch bắn trúng đầu. “Tôi gục xuống. Và tôi cảm thấy cả thân hình như bị cuốn vào một đường hầm với tốc độ rất cao. Tôi văng đi rất xa. Bỗng cuối đường hầm đó có một tia sáng chói lòa. Tôi cảm thấy mình bay lên theo chùm tia sáng ấy”.

Người lính Lý Thúc Chất đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, không một phút chần chừ, do dự, tiếc nuối. Người lính Lý Nam Thanh cũng chết vì đạn của kẻ địch, trong trận chiến gần làng Pitrischevo.

“Khi ra trận, tôi không hề run sợ. Giữa các anh em đồng đội, tôi là một người Việt Nam. Tôi cần sống đàng hoàng cho ra phẩm cách người Việt Nam. Tôi cần chiến đấu cho đúng tinh thần người Việt Nam”. “Mùa Xuân là cái chết của tôi, của chúng tôi, những người lính trẻ. Chúng tôi nghe thấy bản giao hưởng của ngàn hoa Xuân dâng trào”.

Cũng trong trận chiến gần làng Pitrischevo, người lính Lý Anh Tạo đã ngã xuống. Anh chọn cách tự sát, bởi không muốn bị bọn phát xít Đức bắt làm tù binh. Giây phút cuối cùng, khi biết rằng không thể xoay trở được tình thế, anh rút chốt lựu đạn và áp nó vào ngực.

Thân xác anh tan nát. Máu anh hòa trong tuyết. Anh là người lãng mạn nhất trong số những người Việt gia nhập Hồng quân, hát hay, thích làm thơ, biết chơi phong cầm, có mối tình đầu chớm nở với Tanhia - cô thiếu nữ Nga xinh đẹp, nồng hậu. Anh chết khi chưa kịp đọc thư Tanhia gửi cho anh. Những dòng cuối cùng anh dành cho Tanhia là một bài thơ:

“Rừng Nga ơi! Đất Nga ơi!

Khi tôi chết, hãy ôm tôi vào lòng

Đất ấm áp và rừng thoáng đãng

Những hàng cây hiền hậu tiễn đưa tôi…”.

Cái chết của liệt sĩ Lý Văn Minh cũng đầy ám ảnh: Chết vì rét. Đơn vị anh tham chiến ở cánh đồng Bogorodinskoye – Chảo lửa Viazma. Sau một trận đánh khốc liệt, anh tỉnh dậy giữa mênh mông tuyết và ngổn ngang xác chết. Đói và rét. Đặc biệt là rét. Tưởng như máu đã đông đặc lại.

“Cứ như thế, tôi nằm gục giữa cánh đồng. Không thể kêu một tiếng. Và tôi thiếp đi. Chìm vào giấc ngủ. Một giấc ngủ kéo dài vô tận”. “Tôi là một người lính rất bình thường. Một chiếc lá rơi. Một hạt mưa nhỏ. Một bông tuyết mảnh tan giữa không trung. Và tôi tham dự một cuộc chiến ở một nơi rất xa quê hương”.

Nhà văn Đoàn Tuấn (giữa) cùng đồng đội trở lại chiến trường xưa. Ảnh: NVCC.

Nhà văn Đoàn Tuấn (giữa) cùng đồng đội trở lại chiến trường xưa. Ảnh: NVCC.

Không thể nguôi quên!

“Không có sự hy sinh nào vô nghĩa. Thời gian trôi qua, cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại ngày càng được soi rõ từng chi tiết. Những đau thương nhỏ bé. Những mất mát nhỏ nhoi, những nỗi buồn bé mọn…. Tất cả, tất cả đều có ý nghĩa”.

Đó là chia sẻ của chàng trai trẻ trưởng thành trong thế kỷ 21, ngược dòng thời gian 80 năm về trước tìm kiếm tung tích 6 người Việt Nam tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ Moskva năm 1941. Đó cũng là tâm sự của nhà văn Đoàn Tuấn, người đã dành 5 năm để theo đuổi câu chuyện này, tái hiện “Huyền thoại tuổi thanh xuân” của những người cộng sản đã sống và chiến đấu nơi “đất bên ngoài Tổ quốc”

Vào những năm 20 - 30 của thế kỷ 20, quãng đường từ Việt Nam sang Liên Xô vô cùng xa xôi, khó khăn. Phương tiện đi lại hạn chế. Lại phải giữ bí mật tuyệt đối. Không ai biết chính xác 6 chiến sĩ ấy cùng những thiếu niên, những người cộng sản trẻ tuổi đến Liên Xô theo con đường nào?

Đường bộ hay đường thủy, đường sắt? Khởi hành từ biên giới Việt Trung sang Quảng Châu, từ Quảng Châu đến Moskva, hay từ Việt Nam đi đường biển sang Thái Lan, từ Thái Lan đến Quảng Châu rồi từ đây đi tàu hỏa sang Nga? Sang đến nơi, dù được Chính phủ Liên Xô tài trợ toàn bộ chi phí thì việc học tập ăn ở của họ cũng phải được giữ bí mật tuyệt đối.

Những sinh viên người Việt đầu tiên theo học tại Đại học Phương Đông chính là Nguyễn Ái Quốc, Trần Văn Giàu, Lê Hồng Phong, Nguyễn Khánh Toàn. Bản thân Nguyễn Ái Quốc từ những năm 1920 đã liên tục viết thư cho quốc tế cộng sản, yêu cầu hỗ trợ, tạo điều kiện cho các thanh thiếu niên ở Việt Nam sang Liên Xô học tập.

Trong suốt thời gian tồn tại của Đại học Phương Đông cùng Viện Nghiên cứu những vấn đề dân tộc và thuộc địa và Trường Lenin ở Moskva, đã có hơn 60 người Việt Nam theo học.

Chạm vào lịch sử là chạm vào tầng tầng sự kiện, ký ức chưa thể giải mã hoặc chưa giải mã thấu đáo. Với “Huyền thoại tuổi thanh xuân”, Đoàn Tuấn lấy thể loại tiểu thuyết như một lớp áo ngoài để anh yên tâm thực hiện hành trình ngược chuyến tàu về quá khứ.

Trên chuyến tàu đó, anh phát hiện thêm dấu chân tiền nhân Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc – hai người Việt Nam đầu tiên quan tâm đến Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917. Nếu như Phan Bội Châu chưa thể đặt chân đến nước Nga thì Nguyễn Ái Quốc đã đến, năm 1923, đúng vào thời điểm Lê-nin đang ốm nặng và qua đời sau đó.

Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Moskva đã tạo tiền đề vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của cách mạng trong nước. Nguyễn Ái Quốc là một “đóa sen phương Đông” giữa trời Âu. Nhà báo Osip Mandeldstam, phóng viên tạp chí Ngọn lửa nhỏ đã viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”…

“Huyền thoại tuổi thanh xuân” được viết với giọng văn đặc trưng của Đoàn Tuấn. Những câu văn ngắn, chắc và sắc. Nhịp văn nhanh, khi gấp gáp dồn dập, lúc như nghẹn lại, lúc dở dang, lúc cứa vào đau xót tâm can. Cái chết của 6 hạt bụi lịch sử không hề vô nghĩa.

Nhưng để tái hiện phần nào chân dung bên ngoài của họ, tính cách của họ, thói quen của họ, những khoảnh khắc cuộc đời họ, đặc biệt ở khoảnh khắc cuối cùng - đó quả là công việc không đơn giản.

Vì họ là những nhân vật có thật, là một phần của lịch sử gia đình dòng tộc quê hương, một phần của lịch sử chiến tranh vệ quốc Liên Xô - đất nước từng là anh cả đỏ, chỗ dựa của các dân tộc bé nhỏ trên thế giới, nay cũng đã trải qua bao thăng trầm thử thách.

Theo câu chuyện của 6 chiến sĩ, lại gợi dẫn ra bao câu chuyện khác, liên quan đến buổi đầu trứng nước của cách mạng nước nhà. Vượt lên giới hạn, ngăn cách giữa các châu lục về địa lý - văn hóa - hệ tư tưởng, những người cộng sản Việt Nam đã tận hiến cuộc đời cho chính nghĩa, cho những giá trị nhân văn.

Lặng lẽ gom nhặt tư liệu, sắp xếp ký ức để cho ra đời từng cuốn sách kể về thời quá khứ, đặc biệt kể về cái chết của những người lính trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đó vừa là trách nhiệm mà nhà văn Đoàn Tuấn tự thân mang vác nhiều năm nay, vừa để ông bày tỏ một thái độ, một quan điểm giữa bề bộn cuộc sống hôm nay, khi rất nhiều người đã lãng quên quá khứ, thậm chí ngoảnh mặt vào quá khứ, phủ nhận quá khứ bằng những giọng điệu đầy tính dẫn dắt dư luận, thao túng tâm lý.

Lịch sử không có chữ “nếu”. Với người còn sống trở về, họ phải biết ơn người đã ngã xuống. Đặc biệt những người không can dự vào chiến tranh, chưa từng biết đến chiến tranh, thì họ chưa đủ trải nghiệm để phán xét quá khứ.

Khi chưa hiểu thế nào là mất mát, là sự sống kề cái chết, là nỗi đau tê dại tinh thần và thể xác, thì sẽ chưa thấm thía giá trị của hòa bình. Khi quen với chăn ấm đệm êm, với xe sang nhà đẹp, làm sao hiểu được nỗi ám ảnh, dư chấn của người lính vừa băng qua một sa mạc đầy xác chết.

“Tôi không thể sống thiếu người đã mất

Tôi sống bằng cái chết của bạn tôi”

Những câu thơ tuổi 20 của người lính trẻ Đoàn Tuấn đã đi cùng ông suốt những năm tháng sau này, khi trở lại mái trường đại học, rồi dạy học, làm phim, viết báo viết văn. Bài thơ đầu tiên ở chiến trường K cũng là bài thơ về cái chết của đồng đội.

“Đồng đội tôi tình nguyện nằm xuống đó

Để Đất mang gương mặt Con Người

Đất mang tên Nhật Minh

Mang tên Hoàng An, mang tên Dương Công Hạm

Campuchia ơi, đồng đội tôi ngã xuống

Chẳng mộ bia ghi lại tuổi tên”

Từ tập thơ in chung “Đất bên ngoài Tổ quốc”, đến các tập truyện ký sau này: “Những người không gặp nữa” (2006), “Mùa chinh chiến ấy” (2016), “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt” (2022) đều được viết từ niềm cảm khái về những người lính đã hy sinh bên ngoài Tổ quốc: “Chúng tôi còn sống trở về, chắc có biết bao người đã chết thay. Chúng tôi không thể bình yên được. Phải đi về nơi đó. Băng bó cho những linh hồn còn đau đớn giữa rừng hoang” (Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt)

Đến “Huyền thoại tuổi thanh xuân”, dù bối cảnh và không gian thay đổi, song vẫn nằm trong từ trường, trong niềm trăn trở bất an ấy: “Họ không muốn nói gì. Họ không muốn làm phiền cuộc sống của chúng ta. Nhưng tôi muốn kể thay họ. Để làm gì? Để họ luôn bên cạnh chúng ta. Để tâm hồn, cuộc sống của chúng ta không hời hợt, già cỗi”.

Vậy nên, Đoàn Tuấn sẽ còn tiếp tục viết về đồng đội, viết về người lính, về những cái chết không giống nhau, nhưng tất thảy đều khiến lòng người còn sống không thể nguôi quên. Đoàn Tuấn viết, như một cách cầu siêu cho những linh hồn, để bên này hay bên kia thế giới, tất thảy đều được đón nhận năng lượng bình an.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Ảnh: Quốc Bình

Bánh cuốn Thanh Trì

GD&TĐ - Cuối mỗi tuần, lòng nó lại thầm vui. Không phải vì chuyện được xả hơi sau những ngày học hành lu bù mà vì được thưởng thức bánh cuốn Thanh Trì.

Ảnh minh họa.

Những vần thơ tự hát trái tim yêu

GD&TĐ - Sự nhạy cảm của một trái tim trước mọi lẽ cuộc đời đã thôi thúc Xuân Quỳnh đến với con đường làm thơ và hoạt động văn học.