Phát biểu khai mạc toạ đàm, GS.TS Phạm Hồng Chương - Giám đốc Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh, trong giai đoạn phục hồi và phát triển sau đại dịch, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh, tái cơ cấu nền kinh tế và tận dụng tối đa các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Đảng và Nhà nước đã đặt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên vào năm 2025 và mức tăng trưởng “hai con số” trong giai đoạn 2026-2030, hướng tới nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nhóm nước thu nhập cao vào năm 2045.
Việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số không chỉ là khát vọng chiến lược, mà còn là thước đo phản ánh tầm nhìn, quyết tâm và năng lực điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước.
Phân tích mô hình tăng trưởng của Việt Nam, PGS.TS Phạm Thế Anh - Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định, tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu; doanh nghiệp nội địa hầu như chỉ gia công và lắp ráp; mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước rời rạc; xuất khẩu phụ thuộc vào một số thị trường lớn…
Đánh giá nền tảng tài khóa và tiền tệ cho tăng trường kinh tế, PGS.TS Phạm Thế Anh cho rằng, trong những năm gần đây tỷ lệ thu/GDP cao, khoảng 19%, trong khi tỷ lệ chi/GDP giảm do bế tắc trong giải ngân đầu tư công.

Đặc biệt, tỷ lệ thu từ thuế và phí có xu hướng giảm, thu ngoài thuế phí dần chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, năm 2018 thu từ thuế, phí chiếm 81,8% tổng thu ngân sách; năm 2022 còn 77,8%. Trong cơ cấu thu ngân sách theo sắc thuế, thu thuế TNCN tăng nhanh, từ 6,65% năm 2018 lên 8,9% năm 2022 tổng thu ngân sách từ thuế, phí.
“Khả năng tăng các sắc thuế trực thu hạn hẹp khi muốn khuyến khích đầu tư và tiêu dùng trong nước. Trong khi, nghĩa vụ trả nợ/Thu ngân sách ở mức cao. Điều này cho thấy, dư địa tài khóa thực sự đã hạn hẹp” - PGS.TS Phạm Thế Anh khẳng định.
Để tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, PGS.TS Phạm Thế Anh đề xuất, cần xây dựng kế hoạch dài hạn cụ thể, tạo chính sách hỗ trợ (thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh) cho các ngành mũi nhọn, có lợi thế cạnh tranh. Đồng thời, đẩy mạnh đào tạo nhân lực chất lượng cao và đầu tư cho R&D. Mặt khác, cần chọn lọc đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng có sức lan tỏa cao, tránh dàn trải, không tập trung vào các mục tiêu trọng điểm, bị chi phối bởi các yếu tố lợi ích cục bộ hoặc tính thời điểm.
Đối với việc huy động nguồn lực thực hiện các dự án đầu tư công lớn, chuyên gia Đại học Kinh tế quốc dân nhấn mạnh, phải chuyển dịch cơ cấu chi và tìm các nguồn thu bền vững như: thu hẹp/tinh gọn bộ máy; Áp dụng thuế bất động sản (từ căn nhà thứ hai trở đi); giảm thuế TNDN và TNCN để kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước (thay thế một phần xuất khẩu); ưu đãi thuế dựa trên tỷ lệ nội địa hóa; thoái vốn khỏi DNNN và đẩy mạnh hợp tác công tư.
Cũng nói về giải pháp cho kinh tế phát triển bền vững và tăng trưởng cao, TS. Đặng Thị Thu Hoài - Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược nhấn mạnh, tăng năng suất là động lực tăng trưởng quan trọng nhất, bằng cách chuyển dịch cơ cấu, tăng cường hiệu quả, tăng trưởng theo chiều rộng, đổi mới sáng tạo.
Vì thế, TS. Đặng Thị Thu Hoài bày tỏ đồng thuận và đánh giá rất cao những nghị quyết của Đảng, Nhà nước vừa ban hành về những giải pháp phát triển công nghệ, chuyển đổi số và thúc đẩy kinh tế tư nhân, cũng như công cuộc cải cách bộ máy, chính quyền các cấp.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cần tiếp tục cải cách pháp luật, tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh; hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực, vốn, đất đai, cơ hội kinh doanh phải minh bạch, dựa trên năng lực đổi mới sáng tạo...
Ngoài ra, Việt Nam cần phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, bằng cách tăng đầu tư từ ngân sách và huy động các nguồn lực xã hội cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) thuộc các lĩnh vực trọng tâm; xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ, cùng các chính sách thuế, tín dụng khuyến khích R&D, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp...