Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cho thấy còn nhiều thách thức, đòi hỏi những giải pháp đồng bộ và căn cơ, đặc biệt trong việc bảo đảm và phát triển đội ngũ giáo viên.
Nhận diện thách thức
Khẳng định sự cần thiết của việc dạy học môn Tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1, bà Trần Thị Bích Hạnh - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Hạ Hòa (Hạ Hòa, Phú Thọ) lý giải: Lớp 1 là giai đoạn ngôn ngữ đang phát triển, nếu được tiếp xúc sớm với tiếng Anh, khả năng tiếp thu ngôn ngữ thứ hai sẽ được hình thành một cách tự nhiên, có chất lượng hơn, đặc biệt là kỹ năng nói, giao tiếp.
Nội dung môn Tiếng Anh nếu dạy từ lớp 1 sẽ có hệ thống từ thấp đến cao, học sinh dễ dàng tiếp cận hơn. Bên cạnh đó, được học sớm môn Tiếng Anh cũng giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ, tư duy, hỗ trợ các môn học khác tốt hơn.
Tuy nhiên, bà Hạnh thừa nhận, triển khai việc này trên thực tiễn còn không ít khó khăn, đặc biệt về đội ngũ. Hiện nay, giáo viên ngoại ngữ tiểu học còn thiếu nhiều, địa phương cố gắng sắp xếp mới đủ dạy từ lớp 3 đến lớp 5. Nếu triển khai dạy từ lớp 1 thì việc bảo đảm yêu cầu về số lượng và chất lượng người dạy là thách thức không nhỏ.
Trường Tiểu học Nậm Chà (Mường Mô, Lai Châu) có 2 điểm trường, nhưng hiện chỉ có duy nhất một giáo viên dạy Tiếng Anh theo dạng hợp đồng ở điểm trường trung tâm.
Ông Phạm Quốc Bảo – Hiệu trưởng cho biết, thiếu giáo viên chính là “điểm nghẽn” trong triển khai dạy học tiếng Anh tại trường. Việc tuyển mới giáo viên, nhất là môn Tiếng Anh đang gặp nhiều khó khăn do ngày càng có ít giáo viên miền xuôi lên công tác lâu dài ở các trường vùng cao, nhất là những nơi điều kiện kinh tế còn hạn chế.
“Cô giáo tiếng Anh của trường là người địa phương, trước được học theo hệ cử tuyển. Ngoài lương, nhà trường cũng hỗ trợ thêm để thu nhập mỗi tháng của cô trên 10 triệu đồng”, ông Bảo cho hay.
Với 1.317 học sinh và 48 cán bộ, giáo viên, bà Hoàng Thanh Bình - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Trần Nhân Tông (Đông A, Ninh Bình) cho rằng, việc triển khai dạy học môn Tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 là bước tiến lớn. Hiện trường có 4 giáo viên tiếng Anh và vẫn thiếu một người để đáp ứng nhu cầu giảng dạy.
“Thực tế tại đơn vị, việc dạy và học tiếng Anh có nhiều thuận lợi nhờ sự quan tâm của các cấp quản lý, sự đồng hành của phụ huynh, tâm huyết của đội ngũ giáo viên. Tuy nhiên, khi Bộ GD&ĐT triển khai dạy tiếng Anh bắt buộc ngay từ lớp 1, các trường chắc chắn cần bổ sung thêm giáo viên. Hiện nay, việc tuyển dụng giáo viên do các trường đề xuất lên UBND phường/xã, sau đó sở GD&ĐT cùng với sở Nội vụ xây dựng kế hoạch tuyển dụng đảm bảo đủ cơ cấu đội ngũ”, bà Bình chia sẻ.
Là giáo viên tiếng Anh tại Trường Tiểu học Châu Sơn (Cổ Đô, Hà Nội), cô Lê Thị Thanh Huyền cho biết, vùng nông thôn như xã Cổ Đô, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu này còn hạn chế. Nhiều giáo viên tiếng Anh được đào tạo theo hướng dạy cấp học trên, chưa được bồi dưỡng kỹ năng sư phạm dành cho học sinh nhỏ tuổi như trẻ lớp 1. Cơ sở vật chất cũng là trở ngại lớn. Một số trường thiếu phòng học ngoại ngữ, thiết bị nghe nhìn hay
Internet ổn định để ứng dụng công nghệ. Ngoài ra, nhiều phụ huynh chưa thực sự coi tiếng Anh là cần thiết đối với học sinh lớp 1, bởi quan niệm học tiếng Việt còn chưa xong mà học thêm tiếng Anh thì loạn ngôn ngữ. Điều này dẫn đến việc đồng hành cùng con trong học tập còn hạn chế. Tất cả những yếu tố đó nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng triển khai đề án.
 
 Cần những giải pháp căn cơ
Để việc dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 đạt hiệu quả, cô Lê Thị Thanh Huyền kiến nghị thực hiện đồng bộ ba nhóm giải pháp chính: Con người - chương trình - công nghệ.
Thứ nhất, Bộ GD&ĐT cần tổ chức các khóa bồi dưỡng chuyên sâu cho giáo viên tiếng Anh tiểu học, đặc biệt giáo viên ở vùng nông thôn, sâu, xa. Các khóa học này nên tập trung vào phương pháp giảng dạy tiếng Anh cho trẻ nhỏ, kỹ năng tổ chức hoạt động tương tác, trò chơi ngôn ngữ, sử dụng ngữ điệu và cảm xúc trong lớp học.
Thứ hai, cần xây dựng chương trình, tài liệu học tập thân thiện và phù hợp với lứa tuổi lớp 1; trong đó ưu tiên phát triển năng lực nghe - nói, khả năng cảm thụ ngữ âm, không đặt nặng ngữ pháp hay từ vựng hàn lâm. Mục tiêu giai đoạn đầu nên giúp học sinh yêu thích tiếng Anh, tự tin giao tiếp những câu đơn giản, hình thành thái độ tích cực với môn học.
Thứ ba, nên đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và trí tuệ nhân tạo (AI) trong dạy học tiếng Anh, đặc biệt ở các vùng còn thiếu giáo viên và thiết bị. Các công cụ như video hoạt hình tương tác, sách truyện số (storybook), hoặc nhân vật AI hướng dẫn bài học có thể giúp giờ học trở nên sinh động, khơi gợi hứng thú tự nhiên cho học sinh.
Ông Phạm Quốc Bảo thì nhấn mạnh giải pháp về đội ngũ và cho rằng, nên ưu tiên chọn ngay những học sinh có năng lực ngoại ngữ tốt tại các trường THPT, tạo điều kiện cho các em học lên đại học sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, các em cam kết trở về địa phương công tác giảng dạy. Đây là giải pháp thiết thực và bền vững, bởi thực tế cho thấy nhiều giáo viên từ vùng xuôi được điều động lên miền núi thường chỉ gắn bó một thời gian ngắn rồi xin chuyển về, khiến đội ngũ thường xuyên biến động, thiếu ổn định.
Cũng bàn giải pháp, bà Trần Thị Bích Hạnh đưa ba phương án: Vận động xã hội hóa để học sinh sớm được tiếp cận chương trình tiếng Anh từ lớp 1; Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho việc hợp đồng giáo viên tiếng Anh lớp 1, 2 (nếu chưa có biên chế) và có lộ trình đào tạo nhằm đáp ứng đủ nhu cầu giáo viên; tích cực đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có môn Tiếng Anh.
“Thực tiễn nhà trường, tôi nhận thấy khó khăn nhất khi triển khai dạy học tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 là thiếu giáo viên. Giải pháp của Trường Tiểu học Hạ Hòa nhiều năm nay để khắc phục đó là thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền để phụ huynh thấy được sự cần thiết của việc học tiếng Anh; lựa chọn trung tâm, giáo viên có uy tín, chất lượng; thường xuyên kiểm tra, đánh giá để điều chỉnh kịp thời nếu cần thiết; công khai, minh bạch để tạo sự đồng thuận”, bà Trần Thị Bích Hạnh chia sẻ kinh nghiệm.
“Dạy tiếng Anh cho trẻ nhỏ là thách thức không hề nhỏ vì các em chưa có khả năng tư duy ngôn ngữ trừu tượng, độ tập trung ngắn nên việc dạy cần linh hoạt, sinh động thông qua các hoạt động như hát, kể chuyện, đóng vai hay trò chơi vận động. Điều này đòi hỏi giáo viên phải được đào tạo bài bản về phương pháp giảng dạy tiếng Anh cho trẻ nhỏ, một lĩnh vực mang tính chuyên biệt khác hẳn với THCS, THPT”, cô Lê Thị Thanh Huyền cho biết.
 
  
  
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
  