Bệnh lây truyền qua đường hô hấp và thường trội lên thành dịch vào mùa xuân. Bệnh có thể gặp ở trẻ em, người lớn nếu không có miễn dịch phòng bệnh có thể gây biến chứng nguy hiểm.
Hiện nay nhờ có vaccin sởi được tiêm phòng rộng rãi nên tỷ lệ mắc bệnh và tử vong đã giảm nhiều.
Bệnh sởi lây truyền như thế nào?
Virut sởi xâm nhập cơ thể qua đường hô hấp. Tại đây, virut nhân lên ở tế bào biểu mô của đường hô hấp và ở các hạch bạch huyết lân cận. Sau đó, virut vào máu (nhiễm virut máu lần thứ nhất). Thời kì này tương ứng với thời kì nung bệnh.
Từ máu, theo các bạch cầu, virut đến các phủ tạng (phổi, lách, hạch, da…) gây tổn thương các cơ quan và các triệu chứng lâm sàng thời kì toàn phát.
Ban ở da và niêm mạc chính là hiện tượng đào thải virut của cơ thể đã phản ứng miễn dịch bệnh lí. Từ khoảng ngày thứ 2 - 3 từ khi mọc ban, cơ thể sinh kháng thể.
Kháng thể tăng lên thì virut bị loại khỏi máu. Bệnh chuyển sang thời kì lui bệnh. Lây trực tiếp khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyện… Lây gián tiếp ít gặp vì virut sởi dễ bị diệt ở ngoại cảnh.
Ai dễ bị bệnh sởi?
Tỷ lệ mắc bệnh 100% ở người chưa có miễn dịch. Lây truyền mạnh trong những tập thể chưa có miễn dịch (nhà trẻ, mẫu giáo…). Hay gặp ở trẻ nhỏ 1 - 4 tuổi.
Trẻ dưới 6 tháng ít mắc vì có miễn dịch của mẹ. Người lớn rất ít mắc bệnh vì đã bị mắc từ bé. Người lớn nếu mắc bệnh thường là những người ở vùng cao, hẻo lánh, đảo xa… từ nhỏ chưa tiếp xúc với virut sởi.
Dấu hiệu nhận biết bệnh
Khoảng 10 - 12 ngày sau khi tiếp xúc với virut sởi, bệnh thường bắt đầu với một cơn sốt khá nhẹ, kèm theo những triệu chứng như ho, chảy mũi, mắt đỏ và đau cổ họng.
Khoảng 2 - 3 ngày sau, đốm Koplik nổi lên (là những nốt nhỏ xíu với trung tâm màu xanh trắng xuất hiện bên trong miệng nơi gò má), đốm này là dấu hiệu đặc biệt của bệnh sởi.
Sau đó, bệnh nhân có thể bị sốt cao lên tới 39 - 40oC. Cùng lúc đó, những mảng đỏ nổi lên, thường là ở trên mặt, theo đường tóc và sau tai.
Những nốt đỏ hơi ngứa có thể dần lan xuống ngực, lưng và cuối cùng xuống tới đùi và bàn chân. Bệnh sởi thông thường là lành tính.
Ở thể nhẹ thì khoảng một tuần sau, những vết nhỏ này sẽ nhạt dần, vết nào xuất hiện trước sẽ hết trước, để lại trên da dấu hiệu vằn da hổ. Tuy nhiên, cần thận trọng với thể sởi nặng (ác tính) có thể gây tử vong.
Thể thông thường điển hình của bệnh sởi
- Nung bệnh: 8 - 11 ngày
- Khởi phát (giai đoạn viêm xuất tiết): 3 - 4 ngày. Sốt nhẹ hoặc vừa, sau sốt cao; Viêm xuất tiết mũi, họng, mắt: chảy nước mắt nước mũi, ho, viêm màng tiếp hợp, mắt có gỉ kèm nhèm, sưng nề mi mắt.
Nội ban xuất hiện (ngày thứ hai): gọi là hạt Koplick, đó là các hạt trắng, nhỏ như đầu đinh ghim, từ vài nốt đến vài chục, vài trăm nốt mọc ở niêm mạc má (phía trong miệng, ngang răng hàm), xung quanh hạt Koplick niêm mạc má thường có sung huyết. Các hạt Koplick chỉ tồn tại 24 - 48 giờ.
Đây là dấu hiệu có giá trị chẩn đoán sớm và chắc chắn. Hạch bạch huyết sưng. Xét nghiệm ở giai đoạn này có bạch cầu tăng vừa, Neutro tăng.
Toàn phát (giai đoạn mọc ban): Ban mọc ngày thứ 4 - 6, ban dát sần, ban nhỏ hơi nổi gờ trên mặt da, giữa các ban là khoảng da lành.
Ban mọc rải rác hay dính liền với nhau thành từng đám tròn 3 - 6mm. Ban mọc theo thứ tự:
Ngày 1: mọc ở sau tai, lan ra mặt;
Ngày 2: lan xuống đến ngực, tay;
Ngày 3: lan đến lưng, chân. Ban kéo dài 6 ngày rồi lặn theo thứ tự trên.
Ban mọc ở bên trong niêm mạc (nội ban): ở đường tiêu hóa gây rối loạn tiêu hóa, đi lỏng, ở phổi gây viêm phế quản, ho. Toàn thân: khi ban bắt đầu mọc, toàn thân nặng lên, sốt cao hơn, mệt hơn.
Khi ban mọc đến chân, nhiệt độ giảm dần, triệu chứng toàn thân giảm dần rồi hết. Xét nghiệm ở giai đoạn này có bạch cầu giảm, Neutro giảm, lympho tăng.
Lui bệnh (giai đoạn ban bay): Thường vào ngày thứ 6, ban bắt đầu bay. Ban bay theo thứ tự từ mặt đến thân mình và chi, để lại các nốt thâm có tróc da mỏng, mịn kiểu bụi phân hay vảy cám.
Những chỗ da thâm của ban bay và chỗ da bình thường tạo nên màu da loang lổ gọi là dấu hiệu “vằn da hổ”, đó là dấu hiệu để truy chẩn đoán. Toàn thân bệnh nhân hồi phục dần nếu không biến chứng.
Thể sởi ác tính
Các dấu hiệu ác tính thường xuất hiện nhanh chóng trong vài giờ trên những thể địa quá mẫn, vào cuối giai đoạn khởi phát, trước lúc mọc ban.
Thường có các triệu chứng sau: sốt cao vọt 39 - 41 độ C, u ám, vật vã, mê sảng, hôn mê, co giật, mạch nhanh, huyết áp tụt, thở nhanh, tím tái, nôn, đi ngoài phân lỏng, đái ít, xuất huyết dưới da hay phủ tạng. Tùy theo triệu chứng nào nổi bật, sẽ có:
- Sởi ác tính thể xuất huyết: xuất huyết dưới da hoặc nội tạng.
- Sởi ác tính thể phế quản - phổi: biểu hiện chủ yếu là suy hô hấp.
- Sởi ác tính thể nhiễm độc nặng: sốt cao, vật vã, co giật mạnh, hôn mê, mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt.
- Sởi ác tính thể tiêu chảy: rối loạn tiêu hóa nổi bật.
- Sởi ác tính thể bụng cấp: giống viêm ruột thừa thường gặp ở trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi, trẻ suy dinh dưỡng hoặc còi xương, trẻ đang mắc các bệnh khác…
Ðánh giá tiên lượng sởi phải căn cứ chủ yếu vào hội chứng nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân, không nên chỉ dựa vào ban, vì ban thưa có thể gặp ở thể nhẹ nhưng cũng có thể gặp ở thể nặng khi trẻ suy dinh dưỡng tính phản ứng yếu.
Ngược lại, ban mọc dày không nhất thiết là nặng vì có thể gặp ở trẻ dinh dưỡng tốt, tính phản ứng mạnh. Sởi ở trẻ dưới 6 tháng thường nhẹ; Sởi ở trẻ 6 tháng - 2 tuổi thường nặng; Sởi ở trẻ suy dinh dưỡng - còi xương thường không điển hình và nặng;
Sởi ở trẻ đã được gây miễn dịch bằng Gamma globulin hoặc vaccin thường nhẹ. Phụ nữ mang thai mắc sởi có thể gây sảy thai, dị dạng, đẻ non… Sởi kết hợp với các bệnh nhiễm khuẩn khác như: ho gà, lao, bạch hầu… làm bệnh.