Đội du kích rừng Khuổi Nọi
Đội du kích Bắc Sơn là lực lượng vũ trang đầu tiên được thành lập vào năm 1941. Năm 1940, trong sự đàn áp, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhân dân khắp mọi miền Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã vùng lên đấu tranh vũ trang, giành chính quyền.
Ngày 27/9/1940, nhân cơ hội quân Pháp thua chạy qua châu Bắc Sơn (Lạng Sơn), người dân đã nổi dậy đấu tranh, tước khí giới của quân Pháp để vũ trang cho mình, giải tán chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng.
Ngay sau khi được tin cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử ông Trần Đăng Ninh trực tiếp lên lãnh đạo phong trào và hướng cuộc khởi nghĩa vào mục tiêu xây dựng lực lượng để chiến đấu lâu dài.
Ngày 13/10/1940, cuộc họp tại khu rừng Tân Hương đã quyết định thành lập đơn vị du kích Bắc Sơn đầu tiên. Hội nghị Trung ương VII của Đảng đã quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn làm vốn quân sự cho các cuộc khởi nghĩa sau này, cũng như xây dựng trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai làm chỗ dựa cho đấu tranh vũ trang. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 14/2/1941, Đội du kích Bắc Sơn được chính thức thành lập ở khu căn cứ Khuổi Nọi, thuộc xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn (Lạng Sơn).
Đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng công nhận, trao nhiệm vụ và lá cờ đỏ sao vàng cho đơn vị vũ trang đầu tiên của Đảng gồm 32 cán bộ, chiến sĩ là con em đồng bào các dân tộc Lạng Sơn đã được giác ngộ cách mạng, một lòng đi theo Đảng. Khi mới thành lập, vũ khí của Đội du kích Bắc Sơn có 5 súng trường, súng kíp và dao găm.
Các chiến sĩ của Đội luôn khắc ghi 5 lời thề danh dự. Đó là: Không phản Đảng; Tuyệt đối trung thành với Đảng; Kiên quyết chiến đấu và trả thù cho các đồng chí bị hy sinh; Không hàng giặc; Không hại dân.
Hoạt động của Đội nơi miền rừng núi Lạng Sơn đã lập nên những chiến công vang dội, góp phần làm nên chiến thắng của cuộc đấu tranh vũ trang của quân và dân ta.
Đội du kích Mẹ Âu Cơ
Hưởng ứng lời hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh, các Chiến khu Cách mạng tháng Tám đã lần lượt được thành lập tại các vùng đất của Phú Thọ. Điển hình là Chiến khu Vần - Hiền Lương. Tại xã Hiền Lương (Hạ Hòa - Phú Thọ) cùng làng Vần (Trấn Yên - Yên Bái), Chiến khu Vần - Hiền Lương được thành lập từ chủ trương tại Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ là phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa chống Nhật để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.
Chiến khu Vần - Hiền Lương là một trong bảy Chiến khu quan trọng trong cả nước, tạo sự liên lạc giữa các chiến khu, làm nên những “bàn đạp” cho cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám.
Vào tối ngày 14/5/1945, tại chùa Linh Phúc (xã Hiền Lương, cạnh đền Mẫu Âu Cơ) trước sự chứng kiến của đông đảo quần chúng, đội du kích Âu Cơ đã được thành lập với 33 đội viên. Sau hơn một tháng hoạt động, đội du kích đã phát triển lên tới 100 đội viên. Khi đó, vùng Hiền Lương - Làng Vần là miền rừng núi hoang vu, bên cạnh là dòng sông Hồng cuộn chảy.
Vì thế, địa bàn hoạt động và chiến đấu của Đội du kích Âu Cơ chủ yếu là rừng núi với bao khó khăn, thiếu thốn. Với lòng yêu nước, một lòng đi theo tiếng gọi của Mặt trận Việt Minh, uy tín và ảnh hưởng của Đội du kích Âu Cơ và khu căn cứ Vần - Hiền Lương ngày càng lớn mạnh đã tác động đến phát xít Nhật ở Yên Bái.
Hưởng ứng chủ trương của Đảng phá kho thóc Nhật cứu đói cho dân, đội du kích Âu Cơ đã bí mật phá kho thóc Nhật ở gần đầm Vân Hội vào ngày 13/6/1945 và đã thu được hàng trăm tấn thóc, giải quyết nạn đói cho nhân dân.
Tiếp theo đó, vào rạng sáng ngày mùng 2/8/1945, đúng theo kế hoạch, mặc dù nước lũ dâng cao nhưng lực lượng vũ trang của Đội du kích Âu Cơ đã phân chia làm các tổ chặn đường tấn công của Nhật, tước khí giới, khiến cho toán quân Nhật tan tác, một số phải bỏ chạy về Yên Bái.
Đến nay, người dân Hiền Lương và làng Vần vẫn đọc cho nhau nghe những vần thơ nói về khí thế sôi sục của những ngày tiền khởi nghĩa: “Nhật về khủng bố Âu Cơ/ Bị quân dân đánh bất ngờ thua to/ Bốn thằng chết, một đắm đò/ Quân dân phấn khởi reo hò khắp nơi!”.
Bến Ngòi Vần và những chiếc thuyền nan, là phương tiện hoạt động của Đội du kích Âu Cơ. |
Đội du kích Khau Phạ
Đội du kích Khau Phạ (xã Cao Phạ, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái) được thành lập vào tháng 10/1946 tại bản Trống Tông Khúa trên đỉnh đèo Khau Phạ.
Sự đàn áp, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và bọn Quốc dân đảng, đồng bào các dân tộc vùng Cao Phạ, trong đó, chủ yếu là dân tộc Mông đã vùng lên đấu tranh. Vào năm 1944, đồng bào Mông thành lập một đội vũ trang. Để đội vũ trang đi vào hoạt động và thu hút, tập hợp được đông đảo đồng bào các dân tộc, vào tháng 10/1946, Đội du kích Khau Phạ đã được thành lập ngay trên vị trí đỉnh cao nhất của đèo Khau Phạ.
Ban đầu, với lực lượng chỉ gồm 7 đội viên, vũ khí chỉ có 3 khẩu súng kíp tự tạo, dao, gậy, cung nỏ. Đội do ông Giàng Khua Kỷ làm đội trưởng. Chỉ trong một thời gian ngắn, Đội đã phát triển lên tới 200 hội viên, chủ yếu là người dân tộc Mông bản địa. Họ được gọi với biệt danh là “Những chiến binh mây mù” trên đỉnh trời Khau Phạ.
Từ khi thành lập, Đội đã hoạt động tích cực tại khu vực Tú Lệ, Cao Phạ, Mù Cang Chải, không ngừng chặn đứng các cuộc đàn áp, tấn công và tiến quân của quân địch.
Vào những năm 1948, 1949, 1951, 1952, Đội du kích Khau Phạ đã góp phần tăng sức mạnh chiến đấu và tấn công kẻ địch tại khu vực Nghĩa Lộ, Than Uyên, Phù Yên (Sơn La), chặn các đường tiến quân của kẻ thù. Đặc biệt, trong chiến dịch giải phóng Tây Bắc năm 1952, Đội du kích Khau Phạ đã phối hợp với bộ đội chủ lực tiến hành nhiều trận đánh lớn, thu được hàng trăm vũ khí các loại của kẻ thù.
Đội du kích Khau Phạ đã để lại dấu ấn quan trọng trong chiến dịch giải phòng vùng Tây Bắc, tạo sức ảnh hưởng đối với phong trào nổi dậy chống Pháp của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Bắc. Hiện nay, trên đỉnh đèo Khau Phạ, còn đó bia đá di tích ghi lại chiến công của Đội du kích Khau Phạ.
Vào năm 2012, nơi thành lập Đội du kích Khau Phạ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử quốc gia.