Đất thiêng Dương Liễu sản sinh ba nhà khoa bảng nức tiếng

GD&TĐ - Là vùng đất lành, làng Dương Liễu từng chứng kiến những lần vinh quy bái tổ của các vị tiến sĩ nho học.

Đình làng Dương Liễu ngày nay.
Đình làng Dương Liễu ngày nay.

Không chỉ là một ngôi làng cổ thờ danh tướng Lý Phục Man, làng Dương Liễu thuộc Hoài Đức (Hà Nội) còn được biết đến là vùng đất học, nổi tiếng với ba vị đại khoa có nhiều công lao với quê hương đất nước.

Dương Liễu xưa thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Là vùng đất lành, làng Dương Liễu từng chứng kiến những lần vinh quy bái tổ của các vị tiến sĩ nho học.

Cho đến nay, dù một thời huy hoàng đã cách xa nhưng những dấu tích về sự học vẫn vẹn nguyên qua những di tích, và những câu chuyện về ý chí dùi mài kinh sử vẫn được lan truyền qua những lời kể nơi đình làng.

Vị đại khoa dòng hậu duệ anh hùng Nguyễn Trãi

Trong số các vị đại khoa làng Dương Liễu, phải kể đến Tiến sĩ khai khoa Nguyễn Phi Kiến, sinh năm 1564, là cháu đời thứ 5 của dòng họ Nguyễn Phi Hùng (em út của Nguyễn Trãi), hậu duệ đời thứ 6 của Tiến sĩ Nguyễn Phi Khanh (cha của Nguyễn Trãi).

Các nguồn tư liệu cho rằng, vào đầu thế kỷ 15, có một người hiệu là Trực Thiện, con trai cụ Nguyễn Phi Hùng (tức là cháu gọi Nguyễn Trãi bằng bác ruột), đến định cư tại làng Dương Liễu, và dần hình thành một chi họ Nguyễn Phi tại đây.

Nguyễn Phi Kiến ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, ham học, ngày đêm chuyên cần nghiên bút. Hơn 20 tuổi, ông thi đỗ Cử nhân đời nhà Mạc, được bổ nhiệm làm Tri phủ Khoái Châu (Hưng Yên). Là người có tài năng, đức độ và tinh thần hăng hái, hết lòng vì công việc nên rất được lòng dân.

Tuy vậy, ông không bao giờ tỏ ra tự mãn mà vẫn luôn học hỏi để nâng cao kiến thức, mở rộng học vấn. Ai cũng mong ông tiếp tục dự kỳ thi Hội, nhưng suốt mấy chục năm, lúc thì do hoàn cảnh gia đình, khi thì do việc thực thi công vụ bận rộn nên ông không có điều kiện ứng thí.

Mãi đến khi đã 59 tuổi, nhân lúc triều đình mở khoa thi Hội, ông mới có dịp về kinh dự thi. Khoa Quý Hợi, năm Vĩnh Tộ thứ 5 (1623) đời vua Lê Thần Tông, ông đỗ Hội nguyên đồng Tiến sĩ xuất thân - tên đứng thứ nhất trong số 7 tiến sĩ, trở thành người khai khoa cho làng Dương Liễu.

Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1623 do Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận, Hàn lâm viện Hiệu thảo Lê Đình Lại vâng sắc soạn, có đoạn: “Sĩ nhân trong nước dự thi đông đến hơn 3.000 người, chọn được hạng xuất sắc 7 người. Những người xuất thân khoa này đều là kẻ sĩ tài năng lỗi lạc, uyên thâm rộng rãi.

Có người giữ việc nói bàn mà chấn chỉnh được triều cương, có người ở chức vị thấp mà bàn luận ngay thẳng đúng đắn, có người chỉ giữ việc quân mà hoạch định sách lược, có người cầm cương ngựa mà bám sát theo hầu. Những bậc học rộng tài năng uyên bác, những danh sĩ trác lạc tuấn dị, văn chương của họ lẫy lừng thiên hạ, mà sự nghiệp hiển rạng ở đời, há lại không có gì ghi nhớ cảm niệm hay sao?”.

Sau khi thi đỗ, Tiến sĩ Nguyễn Phi Kiến được phong Ngự sử đài và cử làm Hiến sát sứ Hải Dương. Lúc làm quan, ông luôn thể hiện tính khoan dung độ lượng, nhưng rất kiên quyết xử phạt nghiêm khắc những kẻ làm hại tới đời sống dân lành. Ông cũng rất quan tâm tới đời sống văn hóa làng quê.

Trước đó, ngôi đình của tổng Dương Liễu được dựng ở ngoài đồng, đến khi đỗ tiến sĩ, ông đã cho chuyển đình về cạnh đê – là trung tâm hàng tổng để tiện cho việc sinh hoạt văn hóa của dân. Trong những lần về thăm quê, ông luôn nhắc nhở mọi người phải dùi mài kinh sử để có nhiều người tài giúp nước. Ông mất năm 1628, lăng mộ ông được an vị tại xứ Đồng Mía, xã Dương Liễu.

dat-thieng-duong-lieu-san-sinh-ba-nha-khoa-bang-nuc-tieng-2.jpg
Ảnh chụp năm 1928 về Lễ hội đình Dương Liễu với cảnh 'nghiềm quân' tái hiện không khí luyện binh của danh tướng Lý Phục Man.

Đất học, đất quan

Vị đại khoa thứ hai của làng Dương Liễu là Phí Đăng Nhậm, sinh năm 1618. Ông dự thi khoa Tân Sửu (1661), đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, được phong chức Giám sát ngự sử và đặc biệt ban cho làm Cẩn sự lang Giám sát Ngự sử đạo Kinh Bắc.

Sau khi được thăng quan, Tiến sĩ Phí Đăng Nhậm được chúa Trịnh tin dùng và giao cho nhiều trọng trách, trong đó có cả việc phụ trách tuyển chọn nhân tài. Năm 1674, ông được cử vào đạo Thanh Hoa giữ chức Đốc đồng quan công phụng hành sự vụ. Ông là người biên soạn hương ước đầu tiên của làng Dương Liễu với nhiều nội dung tích cực, thúc đẩy việc học tập của dân làng. Bản hương ước này hiện vẫn được lưu giữ.

Vị tiến sĩ thứ ba của làng là Nguyễn Danh Dự sinh năm 1627. Sau khi đỗ khoa Sĩ vọng, vào năm 29 tuổi ông tiếp tục ứng thí đỗ hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Sửu (1685), niên hiệu Chính Hòa thứ 6 đời vua Lê Hy Tông.

Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1685, chép rằng: “Bấy giờ sĩ nhân dự tuyển 2.800 người, qua tuyển chọn chỉ 13 người được đăng tên vào bảng mực nhạt. Sang tháng đầu xuân năm Bính Dần, triệu vào sân lớn thi Đình, hỏi về đạo lý trời đất muôn vật. Sáng hôm sau, dâng quyển tiến đọc, Hoàng thượng sáng suốt ngự lãm, thân định thứ bậc cao thấp.

Gọi loa xướng danh, yết bảng vàng ở cửa nhà Thái học. Ban cho áo mũ cân đai, cho dự yến Quỳnh Lâm, ban cành hoa bạc, rồi cho rước bảng giáp đệ vinh quy về làng, ân điển thật chu đáo đầy đủ”.

Sau khi thi đỗ, ông được bổ chức quan, lần lượt trải các chức: Phó đốc thị Nghệ An, Yên Quảng Hiến sát sứ, Thiêm sai Bồi tụng tri thị nội thư tả hộ phiên... Ông từng được cử đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc) trong một kỳ tuế cống kéo dài 23 tháng, từ tháng Giêng Kỷ Sửu (1709) tới tháng Mười một Canh Dần (1710).

dat-thieng-duong-lieu-san-sinh-ba-nha-khoa-bang-nuc-tieng-4.jpg
Di tích nhà thờ Tiến sĩ Phí Đăng Nhậm.

Sau chuyến Bắc hành thành công với vai trò phó sứ, ông được thăng Đông các Đại học sĩ, tước Nam. Ngay sau đó, được suy ân thăng Công bộ Hữu thị lang, tước Tử. Ông cũng được phụng sai làm chủ khảo một số khoa thi Hội, Thư Toán khoa...

Tiến sĩ Nguyễn Danh Dự nổi tiếng có tài văn chương, bình sinh ông sáng tác nhiều thơ văn, trong khi đi sứ phương Bắc từng có thơ xướng họa cùng các sứ thần, hiện còn 9 bài chép trong “Toàn Việt thi lục”.

Bên canh mảng thơ văn, Nguyễn Danh Dự còn tham gia công việc khảo cứu, biên soạn. Theo Phan Huy Chú thì Nguyễn Danh Dự có soạn bộ “Thi tự thanh ứng” gồm 20 quyển, với 1.529 bài thơ đề vịnh của các nhà thơ xưa và nay, chia làm 11 mục: Thiên văn, địa lý, nhân sự…

Ông cũng tham gia soạn thảo hương ước giao kết giữa ba làng Dương Liễu, Mậu Hòa, Cát Quế. Ông là người đứng tên đầu tiên chỉnh sửa bản hương ước của làng vào năm 1691 - là một trong số ít các bản hương ước hiện còn lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Trong làng Dương Liễu, còn một nhân vật được đánh giá cao và khá gần với thời đại ngày nay – đó là cụ Hồng Lô Nguyễn Bá Luận, sinh năm 1887. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh nên vào năm 1904 được người chú là Nguyễn Bá Huấn xin cho vào trường Phong Túc.

Trường Phong Túc xưa do chính quyền Pháp quản lý, do vậy, Nguyễn Bá Luận được sang Pháp du học. Năm 1916, ông về nước, được vào kinh thành nói chuyện về việc học tập ở nước Pháp với triều đình. Nhà vua thấy ông học giỏi và có tài năng nên đã phong cho là Hồng Lô tự khanh tướng, lại gả công chúa Lương Khanh cho.

Từ đó, Nguyễn Bá Luận làm quan cuối triều nhà Nguyễn, sự nghiệp chủ yếu gắn liền với việc đào tạo nhân tài cho đất nước. Nguyễn Bá Luận từng dạy học ở Trường Quốc học Huế ở kinh thành Huế, Quốc học Vinh (Nghệ An) và trường Bưởi (Hà Nội). Năm 1930, Nguyễn Bá Luận được cử làm Đốc học ngũ tỉnh Bắc Bộ và Đồng bằng sông Hồng.

Trong số nhiều học trò của thầy Nguyễn Bá Luận, có nhiều người ưu tú, sau trở thành những nhà tiền bối cách mạng như: Trần Phú, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hà Huy Giáp, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Xiển, Phạm Thiều, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt…

Năm 1968 do tuổi cao sức yếu, quan Hồng Lô tự khanh Nguyễn Bá Luận qua đời ở tuổi 82, được thờ tự tại từ đường của dòng họ ở xã Dương Liễu. Hiện từ đường còn lưu giữ nhiều tư liệu có giá trị lịch sử liên quan đến vị quan họ Nguyễn. Trong đó có đôi câu đối: “Nhất sinh chí khí thu hồ đán/ Quảng hạ thí hoài tam thiếu lăng”.

dat-thieng-duong-lieu-san-sinh-ba-nha-khoa-bang-nuc-tieng-1.png
Lăng mộ Tiến sĩ Nguyễn Phi Kiến.

Nét xưa còn lại

Là một trong những ngôi làng đang bị “phố hóa” lấn át, song Dương Liễu vẫn còn giữ được những nét xưa, đặc biệt là dấu tích sự học - thông qua các di tích, từ đường thờ các nhà khoa bảng.

Trong số các dấu tích khoa bảng, phải kể đến nhà thờ Tiến sĩ Nguyễn Danh Dự tọa lạc gần đê sông Đáy, là một di tích đẹp được xếp hạng từ năm 2005. Nhà thờ trông về hướng Đông, phía trước có ao sen thơm ngát. Cổng nhà thờ được đắp hình cuốn thư đề ba chữ “Hậu hữu hưng”. Hai bên trụ đặt hai nụ sen, phía dưới cuốn thư đắp hình hổ phù diễn tích “khuấy biển sữa”.

Theo tư liệu, tòa đại bái của di tích được khởi dựng vào triều nhà Nguyễn, hai bên hồi dựng hai tấm bia ghi lại sự tích của dòng họ và thân thế sự nghiệp của Tiến sĩ Nguyễn Danh Dự. Ngoài ra, ở xóm Thống Nhất còn miếu thờ Tiến sĩ Nguyễn Danh Dự, nổi bật với ba chữ Hán “Đồng lĩnh từ” và “Văn tại tư”.

Bên cạnh hệ thống di tích khoa bảng, làng Dương Liễu vẫn bảo lưu được ngôi đình cổ thờ Thành hoàng Lý Phục Man - một danh tướng thời Lý Nam Đế. Một số giai thoại cho rằng, ngôi đình do Tiến sĩ Nguyễn Danh Dự đứng ra kêu gọi 3 thôn Dương Liễu, Quế Dương (Cát Quế), Mậu Hòa (Minh Khai) cùng nhau xây dựng vào năm Kỷ Tỵ (1689).

Đình Dương Liễu trước kia là đình sàn với bốn mặt để thông thoáng. Phía trước là hệ thống cửa bức bàn sáu cánh, phía trên cửa được cổ nhân chạm khắc bong kênh vô cùng tinh xảo. Chính vì vậy, năm 1925 Toàn quyền Đông Dương Monguilot đã ký quyết định xếp hạng đình Dương Liễu là một trong những di tích lịch sử ở Đông Dương.

Cứ 5 năm một lần, lễ hội đình Dương Liễu lại được tổ chức vào ngày 11 tháng 3. Lễ hội được tổ chức theo hương ước của làng do Tiến sĩ Phí Đăng Nhậm soạn thảo vào năm 1661. Trong lễ hội khi “nghiềm quân” - toàn quân đứng trước sân đình làm lễ Thánh trong trang phục chỉnh tề.

Hội làng Dương Liễu có tục truyền rằng, khi rước Thánh giá (Bát hương) phải được che cẩn mật càng kín bao nhiêu thì dân làng làm ăn càng gặp gỡ bấy nhiêu. Rước Thánh phải bắt đầu khi trời chạng vạng tối, khi rước lễ càng chậm càng tốt.

Cự ly rước từ đình lên quán làng dài chỉ khoảng 200m nhưng thời gian kéo dài tới 3 tiếng (từ 18 giờ đến 21 giờ đêm). Những người có tang trở sẽ không được tham gia, kể cả là quân kiệu. Theo lệ làng, tuyển chọn một cụ cao niên uy tín xứng đáng nhất để cầm cờ đầu và một người trẻ khỏe cầm cờ hậu, nhằm đôn đốc đoàn quân.

“Nghiềm quân” của Dương Liễu quy tụ tới 500 trai tráng, đầu quấn khăn đỏ, miệng ngậm còi, tay cầm cờ. Cụ cao niên được chọn cầm cờ đầu trong trang phục uy nghi, dẫn đầu đoàn quân chỉnh tề diễu hành quanh làng, sau đó về Ải cả - một vùng đất rộng để trình diễn việc bày binh bố trận của danh tướng Lý Phục Man.

Nhờ chế độ khuyến học, khuyến tài nên tính đến năm 1894, theo tấm bia “Dương Liễu Hương Hội khoa bi ký” ghi lại, thì ngoài 3 vị đỗ đại khoa: Nguyễn Phi Kiến, Phí Đăng Nhậm, Nguyễn Danh Dự, làng Dương Liễu còn có 44 người đỗ trung khoa (hương cống, cử nhân) và 45 người đỗ sinh đồ, tú tài. Các nhà khoa bảng Dương Liễu đã tạo lập nền văn cũng như nền nếp gia phong để truyền thừa cho con cháu những tinh hoa kết tụ.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ