Dưới đây là một số mẩu chuyện thú vị của một số vị vua liên quan đến chữ nghĩa, học hành, thi cử.
Trần Thánh Tông đổi tên tổ tiên
Năm Bính Dần (1266), vua Trần Thánh Tông sai làm gia phả của hoàng tộc nhà Trần, gọi là “Hoàng tông ngọc điệp”. Điều thú vị là tên của tổ tiên họ Trần đều được đổi lại.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” cho biết về nguồn gốc của Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của nhà Trần như sau: “Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý”.
Do xuất thân từ nghề đánh cá nên tên của con cháu họ Trần đều đặt theo tên các loài cá, chính vì vậy khi làm sách “Hoàng tông ngọc điệp”, Trần Thánh Tông đã cho đổi tên Nôm thuộc bộ cá (Ngư) sang tên chữ Hán với bộ Nhật, bộ Sơn, bộ Mộc.
Trong cuốn “Đông A liệt thánh tiểu lục” cho biết, Trần Kinh tên thật là Kình (cá kình), Trần Hấp tên thật là Chắm (cá chắm), Trần Lý tên thật là Chép (cá chép), Trần Thừa tên thật là Dưa (cá dưa), Trần Liễu tên thật là Nheo (cá nheo), Trần Cảnh tên thật là Canh (cá lành canh)…
Lê Thánh Tông - làm thơ mới được làm vua
Ngày mồng 3 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459) vua Lê Nhân Tông bị anh là Lê Nghi Dân sai người ám hại để cướp ngôi. Các đại thần đứng đầu là Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã đem quân phế truất Lê Nghi Dân rồi cho người đi rước Gia Vương Lê Tư Thành (tức Lê Thánh Tông) lên ngôi.
Theo dã sử, khi các quan đến gặp Gia Vương, để thử tài xem trình độ và tư cách của vị vua tương lai, họ đã bảo ông vịnh con cóc dưới gầm giường. Lê Tư Thành đọc luôn bài thơ: “Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi/ Tắc lưỡi năm ba con kiến gió/ Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi/ Nghiến răng chuyển động bốn phương trời”.
Nghe xong mọi người đều bái phục khẩu khí, cùng nhau quỳ lạy rước ông lên kiệu về cung làm lễ lên ngôi Hoàng đế.
Làm thơ cầu được mưa
Cuộc đời hoàng đế Lê Thánh Tông có rất nhiều giai thoại lạ kỳ được lưu truyền. Tuy nhiên cũng có những chuyện được ghi chép trong chính sử, như câu chuyện vua làm thơ cầu được mưa.
Tháng 2 năm Bính Thìn (1496), đi thuyền từ Thăng Long về quê hương ở xứ Thanh Hoa để làm lễ bái yết, tấu cáo tại lăng tẩm các tiên vương đời trước. Ngày 14 tháng đó, vua nghe nói trời không mưa đã nhiều ngày bèn làm lễ cầu đảo.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng: Trời không mưa, vua cầu đảo, tự tay viết ra 4 tờ tập thơ đã soạn, sai Nguyễn Đôn đem dán ở vách đền thần. Hôm ấy trống canh một, trời mưa nhỏ, đến canh 5 mưa to, nước tràn trề.
Vua liền đề thơ ở miếu Hoàng Hựu rằng: Rung trời anh khí rất thiêng liêng/ Tạo hóa trong tay nắm giữ quyền/ Thần núi nếu hay nhuần thấm vật/ Hóa làm mưa ngọt được mùa liền.
Vua cấp lính hầu cho Tiến sĩ
“Trị nước tất phải nhờ ở nhân tài, mà cầu tìm nhân tài ắt phải do đường khoa mục” (Bia Tiến sĩ khoa Bính Tuất – 1706). Nhà Hậu Lê đã đề ra rất nhiều chính sách ưu đãi thể hiện qua việc ban ơn kèm theo những hình thức tôn vinh, đề cao những bậc hiền tài.
Trong sách “Kiến văn tiểu lục”, Lê Qúy Đôn dẫn ra một số đãi ngộ của triều đình đối với người thi đỗ Tiến sĩ: “Bản triều từ lúc trung hưng đến nay, đối với người đỗ khoa Tiến sĩ, đãi ngộ rất hậu, bổ dụng rất cao”.
Ngoài các ưu ái đó, giữa năm Bính Thìn (1736) vua Lê Ý Tông quy định mức hậu đãi cấp cho các Tiến sĩ lính hầu với số lượng khác nhau: “Định lệ xuất lính theo hầu quan văn có thứ bậc, khoa thi Tiến sĩ đỗ Trạng nguyên thì được lính hầu 55 suất, Bảng nhãn 50 suất, Thám hoa 45 suất, Hoàng giáp mỗi người 40 suất, Tiến sĩ mỗi người 35 suất. Khoa thi Đông các, trúng cách thứ nhất được 30 suất, trúng cách thứ nhì 25 suất, trúng cách thứ ba 20 suất” (Đại Việt sử ký tục biên).
Làm vua không cần đọc sách
Vua Lê Hiển Tông là vị hoàng đế thọ nhất và ở ngôi lâu nhất so với các vị vua của vương triều Hậu Lê. Sử sách cho biết, Lê Hiển Tông là người nhân từ, điềm tĩnh, thông minh, đa tài nhưng vì sống ở thời buổi xã hội đảo điên, quyền lực nằm cả trong tay chúa Trịnh nên vua không thể thi thố được gì mà chỉ yên phận với cuộc sống nhàn tản.
Vua thường nói: “Học là để thi thố ra các công việc, trẫm khoanh tay rủ áo trông đợi thành công, cần gì đọc sách. Hàng ngày chỉ ca múa để mua vui mà thôi”.
Đổi cách ra đề thi, trừ bỏ tiêu cực
Thời Lê trung hưng vẫn kế tục nền giáo dục, thi cử như thời Lê sơ nhưng việc tổ chức thi không còn giữ được sự nghiêm túc. Tình trạng “Các học giả chỉ chuộng nắn nót từng câu, văn chương ngày càng kém cỏi, chỉ học thuộc lòng rồi theo đúng sách viết ra… Thơ phú, tứ lục đều chép theo bài cũ, không sợ giống nhau” (Lịch triều hiến chương loại chí).
Bấy giờ các quan trường thường dùng lại các đề có sẵn của các lần trước không thay đổi gì vì vậy có nhiều người làm bài sẵn mang bán để nho sinh học thuộc. Tháng 10 năm Tân Mão (1711), vua Lê Dụ Tông đã tìm cách bài trừ tình trạng này bằng quy định mới.
“Đại Việt sử ký tục biên” chép: “…Ra lệnh cho các quan chấm thi không được noi theo lệ cũ. Thói xấu ở trường thi nhờ thế dần dần được sửa đổi”.
Vua Tự Đức thi văn đỗ hạng... bét
Là người thông minh, nổi tiếng văn hay chữ tốt nên vua Tự Đức rất tự cao, nói: Trẫm không đi thi nhưng nếu đi thi nhất định trẫm sẽ đỗ Trạng nguyên.
Thấy mọi người không tán đồng, Tự Đức liền nghĩ ra cách cùng một số vị đại khoa làm một bài luận rồi rọc phách gửi sang nhờ vua nhà Thanh lập ban giám khảo chấm giúp. Tự tin nghĩ thế nào mình cũng đỗ đầu nhưng hoá ra bài văn của Tự Đức xếp cuối. Trong bài thi của ông bị phê rằng: Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách, không phải là người thường nhưng là người không có tài mấy!.
Vua làm vè châm biếm quan
Có lẽ vua Tự Đức là người duy nhất làm vè châm biếm các đại thần của mình. Sự tình bắt đầu từ việc tháng 4 năm Bính Tý (1876), vua Tự Đức cùng triều thần ra cửa Thuận An để quan sát dân tình. Bỗng xuất hiện 2 chiếc thuyền của bọn cướp biển Tàu Ô tấn công 9 chiếc thuyền chở hàng của quân Nguyễn.
Chúng bắn giết khiến thuyền của triều đình bỏ chạy tán loạn, những thuyền chiến được cử ra đánh thì súng thần công bắn không tới, phát thì trượt, phát thì không nổ. Không những thế, bọn cướp bắn lại khiến cho quân triều đình bị thương vong.
Tận mắt thấy cảnh trớ trêu, tinh thần yếu kém bạc nhược của quan quân, vua Tự Đức ngao ngán trở về triều nhưng không ban lệnh trách phạt ai. Trái lại vua làm bài vè khiến các quan liên đới phải hổ thẹn:
“Nghênh ngang võng võng, dù dù/ Bài vàng xiêm mũ xuân thu tháp đầu/ Cũng không tài cán chi đâu/ Rồi ra múa mỏ, vểnh râu một bè/ Phen này mắt thấy, tai nghe/ Tham sinh quý tử một bề như nhau/ Ăn thì giành trước giành sau/ Đến khi có giặc thụt đầu, thụt đuôi/ Cũng xưng rằng đấng làm tôi/ Cớ sao chẳng biết hổ ngươi trong mình!”.
Đồng Khánh cũng có bài “Nam quốc sơn hà”
“Nam quốc sơn hà” được coi là “tuyên ngôn độc lập” đầu tiên ra đời trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống xâm lược thời nhà Lý. Còn bài thơ “Nam quốc sơn hà” của vua Đồng Khánh thời Nguyễn được viết vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1887) có nội dung thể hiện lo lắng trước thời cuộc, nhắc nhở quan lại phải hoàn thành chức phận.
Nội dung của bài thơ gồm 20 khổ 80 câu thơ còn dành phần lớn để ca ngợi công lao sáng nghiệp của vua Gia Long, công tích của triều Nguyễn với dân chúng và chỉ trích các đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường phế lập ngôi vua, gây hấn với Pháp.
Bài thơ của vua Đồng Khánh được mở đầu bằng hai câu: “Nam quốc sơn hà Nam đế đô/Thần truyền thánh kế tráng hoàng đồ” (Sông núi nước Nam vua Nam trị/Thần truyền Thánh nối rộng cơ đồ).