Các vị vua Việt khuyên đọc sử

GD&TĐ - Chúng ta không biết các vua thời xưa thường đọc sách gì, nhưng những loại sách đầu tiên kể đến trong lịch sử nước ta, chính là sách sử.

Sách sử luôn là nguồn học liệu quan trọng đối với mỗi con người. Ảnh minh họa
Sách sử luôn là nguồn học liệu quan trọng đối với mỗi con người. Ảnh minh họa

Vua lên ngôi, đầu tiên đều muốn viết sử về gốc tích, dòng dõi của mình. Theo khảo cứu của nhà bác học Phan Huy Chú để làm sách “Văn tịch chí” trong bộ “Lịch triều hiến chương loại chí”, thì cuốn sách xưa nhất mà lịch sử nước ta ghi lại là cuốn “Lý triều ngọc điệp”, do vua Lý Thái Tổ sai soạn năm Thuận Thiên thứ 17 (1026), chép về gia phả dòng họ nhà vua. Thời Trần cũng vậy, vua thứ hai của nhà Trần là Trần Thánh Tông sai soạn “Hoàng tông ngọc điệp” vào năm 1267. 

Sử sách cho biết, vua Trần Nhân Tông ham đọc sách và để lại nhiều tác phẩm về Phật giáo. Nhà vua cũng là một nhà viết sử tài ba khi đích thân biên soạn cuốn “Trung hưng thực lục” ghi chép chi tiết về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược, gồm 2 quyển. Tiếc rằng, bộ sử này của nhà vua sau đó đã thất lạc.

Vua Lê Thái Tổ, sau khi lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, năm Thuận Thiên thứ 3 (1431) cũng cho soạn “Lam Sơn thực lục” kể về gốc tích nhà vua cũng như diễn biến của cuộc kháng chiến. Đích thân Lê Thái Tổ viết bài tựa cho sách này, ký là Lam Sơn động chủ. “Lam Sơn thực lục” tả về vua Lê Thái Tổ rằng: “Nhà vua tuy gặp đời rối loạn, mà chí giữ càng bền; lẩn giấu ở núi rừng làm nghề cày cấy; tự mình vui với kinh, sử, nhất là càng chuyên tâm về các sách thao lược”.

Hậu duệ của Lê Thái Tổ có vua Lê Thánh Tông là một vị vua anh minh, tài ba lỗi lạc bậc nhất trong lịch sử nước ta. Là một vị hoàng đế có những nhiều võ công hiển hách, nhưng Lê Thánh Tông cũng là một tấm gương ham học, ham đọc sách nổi bật trong lịch sử. Lê Thánh Tông còn muốn xem cả sử liệu đương thời để tự sửa mình. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, năm 1467, vua Lê Thánh Tông sai nội quan đến Hàn lâm viện để mượn Nhật lịch (sổ biên chép việc hằng ngày của nhà vua) về cho vua xem.

Sử quan là Lê Nghĩa tâu rằng: “Đường Thái Tông đòi xem quốc sử, Phòng Huyền Linh chép sử không trung thực, đều bị đời sau chê”. Khi biết vua chỉ muốn xem nhật lịch để biết ngày trước có lỗi lầm gì mà sửa đổi, Lê Nghĩa mới dâng nhật lịch. Vua xem xong, trả lại sử viện.

Chúng ta chỉ biết rằng, sử sách mô tả vua Lê Tương Dực là một vị vua bạo ngược, mà ít biết rằng lúc mới lên ngôi, ông cũng là người ham đọc sách sử và có công lao trong việc sửa sang giáo dục, biên chép sử sách. Khi sử quan Vũ Quỳnh dâng sách “Việt giám thông khảo”, chép từ đời Hồng Bàng đến Lê Thái Tổ, dài 26 quyển, vua Tương Dực muốn nhặt những điều cốt yếu để làm tổng luận cho tiện đọc, bèn sai học sĩ Lê Tung soạn cuốn “Việt giám thông khảo tổng luận”, rút gọn chỉ có 1 quyển.

Vua Lê Hiển Tông, trong bài tựa ngự chế cho tập “Hoàng Lê ngọc phả” mà Trịnh Viêm và Nguyễn Hài soạn, cũng nói về chuyện đọc sử của mình: “Ta nối nghiệp ông cha, nghĩ đến dấu nghĩa của các triều trước, không ngày nào quên, từng biên chép thành sách, để hàng ngày xem đọc. Gần đây thấy bản chép cũ của các hương thân, so với những điều trong bản chép của ta thấy có hơi khác nhau, nên ta giao cho bọn gia thần khảo cứu biên chép lại, cốt cho đầy đủ hoàn toàn…”.

Thời Nguyễn, vua Minh Mạng không chỉ ham đọc sách, mà còn khuyến khích các quan đọc sách. Ngay sau khi lên ngôi, đã dụ bầy tôi rằng: “Đạo trị nước chép ở sách vở, không xem rộng xét kỹ không thể biết hết được. Nay thư viện Thanh Hòa chứa nhiều sách lạ bốn phương, bọn khanh lúc rỗi việc mà có chí đọc sách thì mượn mà xem”.

Nhà vua khuyên bề tôi rằng: “Đọc sách quý ở chỗ biết suy xét cho thấu nghĩa lý. Các ngươi kiến thức nông cạn, sao đủ nói điềm hay, điềm dở?”.

Vua Minh Mạng sau chuyến Ngự giá Bắc Thành năm 1821, đã ban dụ cho Nội các rằng: “Nước Việt ta mở nước bằng văn hiến, các bậc vua hiền đời đời đều có, duy Lê Thánh Tông thì không phải đời nào cũng có. Những phép hay chính tốt chép cả ở trong sử sách, lại còn khi rảnh việc thì lấy văn nghệ làm vui, trước tác rất nhiều, tiếng hay phong nhã vẫn còn văng vẳng bên tai mọi người. Trẫm nhớ đến cổ nhân rất lấy làm kính mến.

Tuy đời đã xa, lời nói đã mất, văn chương tuy đã tản mát, nhưng ở trong rừng nho chăm học tất vẫn có người trân trọng giữ gìn. Nay trẫm muốn tìm cho khắc in để lại lâu dài muôn đời bất hủ. Vậy ra lệnh cho quan Lễ bộ, tư hỏi Bắc Thành và các trấn Thanh, Nghệ, Ninh Bình phàm những nhà quan lại sĩ dân, ai còn giữ được những tập thơ văn ngự chế về đời Hồng Đức (1460 - 1497) đều đưa đến cho quan sao chép, thu góp lại để khắc in truyền khắp trong nước, để nêu cái tốt đẹp của tiền nhân, lưu một việc hay trong rừng văn nghệ”.

Vua Tự Đức khi đọc sách “Minh sử”, thấy truyện ở Tòng Giang dân nịnh hót, Ngụy Trung Hiền dựng đền thờ gọi là đền Đức Hinh. Vua thấy ở điện Biểu Đức trong cung cũng có lầu tên là Đức Hinh, nghĩ đến chuyện nịnh hót đời xưa, không yên lòng, cho nên sai đổi lại tên lầu ấy thành lầu Minh Đức, cho làm biển mới treo lên, còn cái biển cũ đem đốt đi.

Noi gương vua Minh Mạng, các vua về sau của triều Nguyễn cũng đều chăm chỉ đọc sách, từ khi còn là hoàng tử cho cả đến khi lên ngôi. Vua cuối cùng của nhà Nguyễn – Bảo Đại – dù được hưởng nền giáo dục tại Pháp, nhưng khi về nước bắt đầu chấp chính năm 1932, đã cảm thấy bản thân mình không có hiểu biết gì về quá khứ của tổ tiên và tính cách của từng vị thế nào. Ông viết trong cuốn hồi ký “Con rồng An Nam”: “Vì vậy, tôi ra lệnh cho bộ Học đệ trình cuốn Sử của hoàng triều và bắt đầu đọc trong nhiều ngày liên tiếp”.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ