Đào Công Chính vốn tên là Đào Dĩnh Đạt, khi đi thi hương mới đổi là Đào Công Chính vì trùng với tên cúng cơm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nguyễn Văn Đạt). Ông sinh năm 1639, người làng Cõi, tổng Đông Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, Vĩnh Bảo, Hải Phòng).
Thần đồng làng Cõi
Đào Công Chính xuất thân từ một gia đình Nho học lâu đời, có nhiều người đậu trung khoa, có người vào học ở Quốc Tử Giám. Cụ tổ trực hệ của Đào Công Chính là cụ Đào Trực Tiết được phong tước Vĩnh Nhân Công. Khi về hưu, cụ mở trường học, sĩ tử theo học khá đông, do đó tạo hiệu là Cối Kê tiên sinh.
Thân phụ của Đào Công Chính cũng theo nghiệp chữ nghĩa, nhưng đường cử nghiệp lận đận. Đào Công Chính từ thuở nhỏ đã thông minh, ham học và được coi là thần đồng. Lần đầu dự thi hương đã đậu Hương Cống khi mới 13 tuổi. Bởi vậy, người đời có câu: “Ông Cõi 13, Thanh Hà 14” để chỉ Đào Công Chính và một vị ở huyện Thanh Hà là những bậc tuổi trẻ đỗ cao.
Không chỉ có tài văn chương mà Đào Công Chính còn am tường về y dược, khi còn học tại Trường Quốc Tử Giám, ông đã được cử làm Điều bộ, lo việc chăm sóc sức khỏe cho đoàn sứ bộ đi phương Bắc.
Theo các sách “Đăng Khoa lục” hiện còn lưu giữ và bia ký ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám thì Đào Công Chính đậu Bảng nhãn khoa Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 4 đời Vua Lê Thần Tông (năm 1661) khi mới 23 tuổi. Và để tránh tên húy, nhân dân trong vùng gọi ông là Bảng Cõi.
Được vua yêu, chúa quý nên Đào Công Chính thăng tiến rất nhanh, chỉ trong vòng 15 năm (1661 - 1676) từ Thị thư Hàn lâm viện đã được bổ nhiệm chức Phủ doãn Phụng Thiên (người đứng đầu kinh đô Thăng Long). Năm 1673, Đào Công Chính được triều đình cử làm Phó sứ đoàn do Chánh sứ Hồ Sĩ Dương phụ trách sang Trung Quốc.
Năm 1675 về nước, Đào Công Chính viết một bài Khải dâng lên chúa Trịnh Tạc, về văn chương dọc đường. Tập thơ có tên “Bắc sứ thi tập” gồm 90 bài, trong đó có 20 bài là thơ họa của Chánh sứ Hồ Sĩ Dương, Phó sứ Vũ Công Đạo và Vũ Duy Hài cùng một vài danh nhân Trung Quốc như Trần Diệp Mộng, Kỳ Giám, Lâm Hữu Thanh… Còn 70 bài thơ của Đào Công Chính cũng rất giầu chất thơ, chất nghệ thuật; nhiều bài vịnh di tích và nhân vật lịch sử với những câu tả thực rất đẹp, là những suy ngẫm hàm chứa triết lý nhân sinh.
Do hoàn thành tốt nhiệm vụ, ông được phong chức Lại bộ Hữu thị lang, Hình bộ Hữu thị lang, Nhập thị kinh diên giảng quan (người giảng sách cho vua) rồi Tăng tả thị lang, Quang tiến Thận lộc đại phu, Bồi tụng…
Đại danh y về thuật dưỡng sinh
Đào Công Chính còn là tác gia quan trọng của thế kỷ 17, khi còn là Thị thư Hàn lâm viện, ông là đồng tác giả tham gia biên soạn “Đại Việt sử ký toàn thư”, biên tập phần kỷ tục biên hoàn thành (1665).
Khi Nhập thị kinh diên (giảng sách cho vua) trong vòng 2 năm (1675 - 1676) cùng lúc ông làm Sử quan Tổng tài (Chủ biên) biên tập 2 quốc sử nổi tiếng là: Trùng san Lam Sơn thực lục, Trung hưng thực lục.
Đặc biệt năm 1676, Đào Công Chính biên soạn sách “Bảo sinh diên thọ toản yếu” theo chỉ dụ của vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Căn. Nội dung sách viết về thuật dưỡng sinh rất toàn diện cả về lý luận lẫn thực tiễn, phòng bệnh, chữa bệnh, rèn luyện hướng dẫn cách ăn uống, kiêng kỵ, tắm giặt, nghỉ ngơi và cả về hoạt động tình dục...
“Bảo sinh diên thọ toản yếu” gồm 5 quyển được coi là cuốn sách về y lý sớm nhất nước ta. Sách bám sát thực tế cơ địa người Việt Nam và được thừa nhận vận dụng có kết quả, được các bậc danh y sau này tiếp thu, vận dụng, phát triển nâng cao.
Trong đó sưu tầm, phân tích, tổng hợp nhiều kiến giải của các tác phẩm y học xưa như Tuân sinh, Đạt sinh, Bản thảo Cương mục… và kinh nghiệm rèn luyện cơ thể của những người theo đạo Lão như Đào Hoằng Cảnh, Lã Đồng Tân, Trần Đoàn…
Nội dung sách hướng dẫn việc giữ gìn sức khỏe để tăng tuổi thọ thông qua các phương pháp dưỡng sinh và khí công (tập luyện cơ thể) như giữ vệ sinh, điều dưỡng, rèn luyện tâm thần, trị bệnh bằng thư giãn, hô hấp, xoa bóp... Cuốn sách được triều đình cho khắc in vào năm 1676 và phổ biến rộng rãi trong dân gian.
Trong lời tựa cuốn sách của mình, Đào Công Chính cho biết sau khi hoàn thành, “Bảo sinh diên thọ toản yếu” đã được triều đình “cho in để ban hành, công bố trong thiên hạ để mọi người hiểu được đạo tu dưỡng, biết được hướng đi lên, đều đạt tới cảnh thanh thản linh diệu, cũng giữ được phúc an bình hưởng thọ, mãi là tấm gương sáng về vệ sinh cho người muôn đời”.
Đào Công Chính được suy tôn là một trong ba “Đại danh y” của Việt Nam có công lớn trong việc xây dựng nền y học cổ truyền của dân tộc, tạo thế kiềng ba chân vững chắc cho nền Đông y: Y học Hải Thượng lãn ông Lê Hữu Trác - Dược học Tuệ Tĩnh - Dưỡng sinh Đào Công Chính.
Phát hiện tấm bia Bảng nhãn
Dù là quan lớn, nhưng Đào Công Chính luôn giữ khí tiết thanh liêm, cả đời làm quan để lo cho lợi ích dân tộc. Ngay cả khi trí sĩ, danh y Đào Công Chính thanh bạch sống tại mảnh đất mà ông bỏ tiền ra mua gần chùa Nhân Mễ (nay thuộc xã Vinh Quang, cách Hội Am khoảng 3 cây số) mở trường dạy học và chữa bệnh cứu người.
Ông mất vào ngày 17/3 Kỷ Sửu (tức 26/4/1709) và được an táng tại khu vực này. Cho đến nay, người địa phương vẫn truyền miệng: “Tháng 3 Bảng Cõi về trời/ Tháng 5 Chiêu Tổ cũng rời trần gian”.
Sau gần 2 thế kỉ yên nghỉ tại Nhân Mễ, đến năm 1901 dòng họ Đào Công ở Hội Am mới đưa thi hài ông về an táng tại nghĩa trang làng Hội Am như ngày nay.
Đào Công Chính từng là một hiền tài thế kỷ 17, nhưng sang đến thế kỷ 18 triều đình nhà Nguyễn cho rằng: Sử gia thời Lê - Trịnh viết sử quân gia, không dựa vào quan điểm chính thống của vua, mà dựa vào quan điểm của chúa.
Bởi vậy, vua Minh Mạng hạ chiếu xóa tên, thu hồi, đốt sách, cấm không được lưu hành sử sách thời Lê - Trịnh. Đây cũng là lý do làm cho danh nhân Đào Công Chính tổn hại thanh danh, vắng bóng tên tuổi trong một thời gian dài.
Đầu năm 2021, người dân Bắc Ninh phát hiện tấm bia dựng tại khu mộ tổ dòng họ Trần khu phố Đa Cấu, phường Nam Sơn (TP Bắc Ninh) do Bảng nhãn Đào Công Chính soạn dưới thời vua Lê Huyền Tông niên hiệu Cảnh Trị thứ 7 (1669).
Tấm bia “Sáng lập hậu thần” hình trụ tứ diện được tạo tác bằng đá xanh nguyên khối cao 105cm, rộng 47cm, đỉnh bia tạo dáng kiểu mái long đình. Lòng bia 4 mặt đều khắc chữ Hán thể chân phương còn rõ nét. Nội dung chính cho biết tại xã Lãm Sơn Đông vừa mới lập vị Trần công giữ chức Cẩn sự tá lang Tri huyện huyện Giáp Sơn cùng với vợ là Nguyễn thị làm hậu thần của bản xã.
Phần cuối cho biết, văn bia được lập vào ngày tốt tháng 12 nhuận triều vua Cảnh Trị năm thứ 7 (1669). Soạn văn bia là Đào Công Chính đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh khoa Tân Sửu (1661), giữ chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Thanh Hoa xứ Tán trị Thừa chính sứ ty Tham chính.
Cục phó Nguyễn Tích Đức người xã Kính Chủ, huyện Giáp Sơn viết chữ, các vị Nguyễn Thịnh Cần, Nguyễn Thịnh Lại, Nguyễn Tích Tường khắc.
“Sáng lập hậu thần” chứa đựng giá trị to lớn về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học và mỹ thuật. Đây là lần đầu tiên phát hiện được di văn quý hiếm còn lại đến ngày nay của nhà khoa bảng tiêu biểu – Bảng nhãn Đào Công Chính. Nội dung văn bia còn cung cấp thêm nhiều thông tin chính xác về khoa danh, chức tước của Bảng nhãn Đào Công Chính vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ 17.