Hứa Tam Tỉnh còn được gọi là Trạng Ngọt, người xã Như Nguyệt, huyện Yên Phong, nay thuộc xã Tam Giang (Yên Phong, Bắc Ninh). Ông đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh năm thứ 4 (1508) đời vua Lê Uy Mục.
Nhà nghèo ham học
Theo truyền miệng tại làng Như Nguyệt (tên nôm là làng Ngọt), Hứa Tam Tỉnh sinh trong gia đình rất nghèo. Cậu bé sớm mồ côi cha nên không có điều kiện học hành như chúng bạn. Tuy vậy, Hứa Tam Tỉnh rất thông minh và thường hay đến nhà thầy đồ họ Ngô để học mót, mỗi khi thả trâu.
Có chuyện kể rằng, vì ham học mà không có bảng viết nên cậu bé Tỉnh thường lấy tấm ván thôi (gỗ từ quan tài đã cải táng) để làm bảng. Một hôm vào lúc trời mưa, Tỉnh lấy bảng che lên đầu. Thầy đồ họ Ngô nhìn thấy thất kinh mà rằng: “Thằng bé này đội mũ quan hẳn là điềm trời báo trước, sau này ắt nên nghiệp lớn”.
Thầy gọi vào lớp hỏi dăm ba chữ, thấy cậu bé trả lời đâu ra đấy. Thầy đồ vui lắm, mới nhận vào lớp cho học và cấp luôn giấy bút. Sau một thời gian, trí thông minh của Tỉnh đã khiến thầy đồ họ Ngô phải khuyên trò lên tỉnh tìm thầy khác. Ông thừa nhận bản thân đã hết chữ để dạy cho Hứa Tam Tỉnh.
Giai thoại cũng truyền lại rằng một lần trên đường lên tỉnh, Hứa Tam Tỉnh gặp đám rước quan Trấn thủ xứ Kinh Bắc. Thấy phía sau kiệu quan là võng tiểu thư xinh đẹp, Hứa Tam Tỉnh mê mẩn, bảo người phu cáng cho mình khiêng thay để được ngắm mỹ nhân.
Về nhà, Hứa Tam Tỉnh đòi mẹ phải đến hỏi tiểu thư làm vợ. Người mẹ sợ quá không dám đi, sau vì thương con liền đánh liều đến dinh quan.
Thấy chuyện lạ đời, quan Trấn thủ cười lớn nhưng rồi ông nghĩ biết đâu anh chàng nông phu kia nếu không phải kẻ cuồng vọng, tất là người khác thường. Quan liền nói với bà mẹ: “Nếu con trai bà muốn vậy thì gọi nó đến đây, ta xem học hành ra sao. Nếu quả là người tài, ta sẽ gả tiểu thư cho”.
Bà mẹ vội vã trở về bảo con đến hầu chuyện quan. Lúc giáp mặt, quan Trấn thủ rất thất vọng khi thấy Hứa Tam Tỉnh da đen, người lùn, mặt mũi xấu xí, duy chỉ có con mắt là tinh anh.
Quan hỏi đến sách vở kiến thức, Hứa Tam Tỉnh đối đáp rất trôi chảy, nên bảo chàng thanh niên ở lại trong dinh để ăn học thêm và giao hẹn nếu thi đỗ cao, nhất định gả con gái cho.
Hứa Tam Tỉnh dốc sức học hành, hơn một năm sau đỗ đầu thi hương, tiếp đó vượt qua kỳ thi hội. Quan y lời hẹn cũ, tổ chức đám cưới cho đôi trẻ. Tuy vậy, khó khăn vẫn chưa qua với Hứa Tam Tỉnh.
Sách “Đăng Khoa lục sưu giảng” chép rằng: “Tới khi làm lễ hợp cẩn, tiểu thư vì đã biết Hứa Tam Tỉnh là anh chàng khiêng cáng ngày trước, lại thêm người đen lùn, xấu xí nên chưa ưng lắm, sai người hầu cầm tờ thiếp ra bảo rằng có một vế câu đối, nếu quan tân khoa đối được thì hãy xin làm lễ”.
“Ốc lậu nguyệt xuyên hình như kê noãn, tam tam tứ tứ” - nghĩa là: Nhà thủng bóng trăng dọi xuống, hình như trứng gà, lốm đa lốm đốm.
Hứa Tam Tỉnh nghĩ mãi không sao đối được. Vừa bực mình, vừa thẹn, ông bỏ ra bờ sông. Tình cờ trông thấy bóng trăng soi trên mặt nước như muôn nghìn lớp sóng bạc dập dềnh, ông bỗng nảy tứ thơ, quay ngay về phòng đối rằng: “Giang trường phong lộng, thế tự long lân, điệp điệp trùng trùng” - nghĩa là: Sông dài gió lộng, thế như vảy rồng điệp điệp trùng trùng.
Tiểu thư xem xong thấy hay, mới đồng ý lấy ông làm chồng. Hôm sau, tiểu thư lại đem câu đối ấy trình cha, quan bảo cứ khẩu khí này thì anh ta còn có thể đỗ Trạng nguyên.
Tại kỳ thi năm Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh năm thứ 4 (1508) đời vua Lê Uy Mục, Nguyễn Giản Thanh đỗ Trạng nguyên, Hứa Tam Tỉnh đỗ Bảng nhãn còn Nguyễn Hữu Nghiêm đỗ Thám hoa.
Trạng Me đè Trạng Ngọt
Tuy chỉ đỗ Bảng nhãn nhưng Hứa Tam Tỉnh lại được dân gian coi là Trạng, vì ông ở làng Ngọt nên dân gian gọi là Trạng Ngọt.
Tương truyền trong dân gian nói rằng, Nguyễn Giản Thanh người làng Me (làng Ông Mặc, nay thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh) là người tài hoa, điển trai. Ông là con Tiến sĩ Nguyễn Giản Liêm, là học trò của Tiến sĩ Đàm Thận Huy. Khi thi hội, Nguyễn Giản Thanh chỉ xếp thứ hai, sau Hứa Tam Tỉnh.
Đến khi thi đình, Hoàng Thái hậu cũng ngồi xem thấy Nguyễn Giản Thanh điển trai, lại người cùng quê nên Thái hậu chỉ tay hỏi vua Lê Uy Mục: “Chắc đó là Trạng nguyên?”. Nhà vua nói: “Cũng còn chờ đình thí bài phú “Phụng thành xuân sắc””.
Bấy giờ, hội nguyên Hứa Tam Tỉnh nhận đề xong liền cắm cúi làm bài vẻ tâm đắc. Nguyễn Giản Thanh biết sở trường Hán văn mình không thắng nổi Hứa Tam Tỉnh nên thể hiện bài phú bằng văn nôm theo sở trường.
Bài Hán văn của Hứa Tam Tỉnh ý tứ sâu xa, các quan đều tấm tắc nhưng Thái hậu sở học có hạn lại nghe bài phú nôm ngữ điệu mượt mà nên cứ tấm tắc khen. Một số câu văn bóng bẩy xao xuyến Thái hậu như: “Liễu Chương Đài mây ngọc giờn giờn/ Đào Thượng Uyển má hồng rờ rỡ/Trai lanh lẹ đá cầu vén áo/Gái éo le rủ yếm dôi quần”.
Chiều ý Thái hậu, vua chấm Nguyễn Giản Thanh xếp trên Hứa Tam Tỉnh. Đó cũng là nguyên nhân xuất phát của câu nói xưa “Trạng Me đè Trạng Ngọt”.
Tuy nhiên cũng có thuyết khác nói rằng, trong buổi lễ ra mắt vua, các tân khoa phải làm một bài phú dâng tặng vua và Hoàng Thái hậu (mẹ của vua). Hoàng thái hậu thấy Trạng nguyên Hứa Tam Tỉnh dung mạo xấu xí thì không ưng lắm. Trong khi đó Bảng nhãn Nguyễn Giản Thanh khuôn mặt khôi ngô thanh tú nên bà muốn cân nhắc làm Trạng nguyên.
Vua vì muốn chiều lòng mẹ nên đánh giá bài phú của Nguyễn Giản Thanh cao hơn và trao danh hiệu Trạng nguyên cho ông.
Các sự việc liên quan đến dung mạo và theo ý riêng Hoàng Thái hậu, nên dân gian đã đặt ra giai thoại để giải thích về tài năng của Hứa Tam Tỉnh. Tuy vậy, nếu xét về quy chế nghiêm ngặt của các khoa thi, đặc biệt khi vua chuẩn y danh hiệu Tam khôi thì có lẽ oan uổng cho Nguyễn Giản Thanh.
Giai thoại cũng nói rằng, vua thấy Giản Thanh là người phủ Từ Sơn cùng quê ngoại mình (làng Phù Chẩn) bèn hỏi: “Làng Ông Mặc cách làng Phù Chẩn gần hay xa?”. Nguyễn Giản Thanh biết là hai làng xa nhau nhưng khôn khéo thưa: “Tâu bệ hạ, hai làng liền một cánh đồng”.
Trong phép tỉnh điền, mỗi đồng là những 500 dặm. Nguyễn giản Thanh dùng chữ đồng âm: Đồng cùng cỏ nghĩa là cánh đồng để tỏ ra là gần. Vua nghe thấy lấy làm vui mừng, truyền lấy Giản Thanh đỗ Trạng nguyên còn Tam Tỉnh chỉ đỗ Bảng nhãn.
Biết chuyện này nho sĩ Kinh Bắc tỏ ý không bằng lòng nên vẫn chê Giản Thanh là “mạo Trạng nguyên”, nghĩa là “Trạng nguyên mặt” vì đẹp trai mà được đỗ Trạng.
Đều được phong hầu, phong bá
Chuyện Nguyễn Giản Thanh và Hứa Tam Tỉnh còn được dân gian giải thích: Trước kia thầy địa lý Tả Ao từng xem đất nhà Tam Tỉnh và nói rằng “Đây là đất phát Trạng nguyên”. Đến khi Tả Ao qua bên quê Nguyễn Giản Thanh thấy ngôi mộ thì lại nói: “Đất ngôi này cũng phát Trạng”.
Người ta lấy làm lạ, bèn hỏi Tả Ao: “Lẽ nào một khoa lại có hai Trạng nguyên?”. Tả Ao bèn nói rằng: “Trạng Me đè Trạng Ngọt”.
Vì chỉ là giai thoại, không có sử liệu chính thống đối chứng nên câu chuyện trên rất đáng ngờ. Vì dù ở trên cương vị minh quân hay hôn quân, việc chính trị liên quan đến xã tắc đâu phải chuyện đùa để có thể quyết định đẹp trai làm Trạng, xấu trai thì Bảng nhãn!?.
Hơn nữa, tài năng của Nguyễn Giản Thanh không hề hèn kém. Lúc Nguyễn Giản Thanh còn đi học, thầy học là Đàm Thận Huy, thấy học trò sắp ra về thì trời đổ mưa to không về được, thầy bèn ra vế đối để thử tài: “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách” (Mưa không có then khóa mà có thể giữ được khách).
Nguyễn Giản Thanh liền đối lại: “Sắc bất ba đào dị nịch nhân” (Cái sắc đẹp của phụ nữ, không phải là làn sóng nổi, nhưng dễ nhận chìm người).
Thầy Đàm Thận Huy nói: Câu đối này thật hay và thật chỉnh, văn khí này có thể đậu Trạng nguyên, nhưng về sau coi chừng việc sắc dục làm hại sự nghiệp.
Nguyễn Giản Thanh làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị thư kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau đó, lại ra làm quan với nhà Mạc, được cử đi sứ sang nhà Minh. Khi trở về, được thăng Thượng thư bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, tước Trung Phụ bá. Khi mất được tặng tước hầu.