Lê Hiến Giản và Lê Hiến Tứ (1341 - 1399), người trang Thượng Lao, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Nam Ninh, Ninh Bình), là cặp anh em sinh đôi nổi tiếng của triều Trần.
Hai vị không chỉ là những nhà khoa bảng xuất sắc mà còn được ghi nhận là những đại thần trung nghĩa, có vai trò quan trọng trong nhiều sự kiện lịch sử, đặc biệt là tham gia vào kế hoạch mưu sát Hồ Quý Ly – người từng thao túng triều đình, gây ra nhiều biến động chính trị.
Câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của họ vừa phản ánh trí tuệ, tài năng của các sĩ phu thời Trần, vừa thể hiện lòng trung nghĩa đối với vương triều và dân chúng.
Từ hậu duệ Tô Hiến Thành đến cặp sinh đôi khoa bảng
Theo các nguồn gia phả và sử liệu, Lê Hiến Giản và Lê Hiến Tứ vốn mang họ Tô, sau đó đổi sang họ Lê, là hậu duệ của Thái úy Tô Hiến Thành - vị quan đại thần từng phụ chính qua hai triều vua Lý Anh Tông và Lý Cao Tông.
Sự kiện đổi họ và di chuyển đến Thượng Lao gắn liền với bối cảnh chính trị rối ren thời bấy giờ. Theo thần tích tại đền Thượng Lao và đền Xối Thượng ở xã Nam Ninh, vào thời nhà Trần, hậu duệ của Tô Hiến Thành là Tô Hiến Chương làm quan ở Gia Viễn, Ninh Bình. Sợ bị mưu sát do những bất ổn chính trị, Tô Hiến Chương đã đổi tên thành Lê Hiến Thái và chuyển đến trang Thượng Lao, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường.
Tại đây, ông cưới người con gái cùng trang tên là Lê Thị Nga. Hai vợ chồng vốn nhân hậu, tính tình hiền lành, thường cứu giúp người gặp khó khăn. Họ còn truyền nghề dệt cho dân quanh vùng, nhờ đó được dân chúng quý mến và tôn trọng.
Mãi vẫn chưa có con, họ nghe tin tại động Hương Tích có chùa thờ Nam Hải Quan Âm Bồ Tát rất linh ứng, nên mang lễ vật đến cầu tự. Nhờ công đức và sự thành tâm, bà Lê Thị Nga có mang, và ngày 10/2 năm Tân Tỵ (1341) sinh được hai người con trai, gọi là Đại Đồng và Tiểu Đồng.
Khi các con đến tuổi đi học, hai vợ chồng đặt tên là Lê Hiến Phủ và Lê Hiến Tứ, đồng thời gửi các con theo học với thầy Đào Toàn Bân – một Tiến sĩ nổi tiếng người làng Cổ Lễ, huyện Nam Chân. Hai anh em vốn thông minh, siêng năng, cộng với việc gặp được thầy giỏi, nên học hành ngày càng tiến bộ, nổi bật trong vùng.
Khoa thi năm Long Khánh thứ 2 (1374) là một dấu mốc quan trọng. Trong kỳ thi này, cả hai anh em cùng tham gia ứng thí. Tuy nhiên, do Lê Hiến Phủ trùng tên với Thượng hoàng Trần Nghệ Tông (tên thật Trần Phủ), ông buộc phải đổi tên thành Lê Hiến Giản.
Kết quả kỳ thi khiến cả phủ Thiên Trường tự hào, con của thầy Đào Toàn Bân là Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên, Lê Hiến Giản đỗ Bảng nhãn, còn Lê Hiến Tứ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ. Việc hai anh em cùng thi đỗ Tiến sĩ trong một kỳ thi hiếm có này khiến dân chúng một vùng vui mừng và ngưỡng mộ.
Sau khi đỗ đạt, Lê Hiến Giản được triều đình bổ nhiệm làm Trấn thủ phủ Thiên Trường – một vùng đất trọng yếu, nơi sinh ra các vị vua Trần. Trên cương vị này, ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc mở rộng, khai khẩn các vùng đất ven biển, đặc biệt là khu vực Giao Thủy cũ và các vùng lân cận, tạo tiền đề cho sự phồn thịnh của Nam Định.
Ông tổ chức cho dân đào con sông lớn gọi là Đào Giang, bắt nguồn từ sông Hồng, chảy qua các huyện Nam Trực và Trực Ninh, đổ vào sông Ninh Cơ. Công trình vĩ đại này cải thiện giao thông đường thủy, giúp thuyền bè thuận lợi, thúc đẩy giao thương và phát triển kinh tế.
Không dừng lại ở đó, Lê Hiến Giản còn chỉ đạo đào nhiều con ngòi nhỏ, bắt nguồn từ sông Đào, dẫn nước vào các cánh đồng lúa bạt ngàn. Hệ thống thủy lợi phức tạp này đã cung cấp đủ nước tưới cho nông nghiệp, giúp dân thuận lợi trong sản xuất, tăng gia sản xuất lúa gạo. Những công trình này không chỉ phản ánh tài năng của ông mà còn là minh chứng cho tấm lòng vì dân, vì nước.
Dũng cảm đối đầu Hồ Quý Ly
Sau những đóng góp ở địa phương, Lê Hiến Giản được triệu về kinh đô, giữ các chức vụ quan trọng như Ngự sử Trung Đại phu và Thị lang Đại học sĩ Tri thẩm hình viện. Ở vị trí này, ông trực tiếp phụ trách công việc pháp luật, góp phần giữ gìn kỷ cương triều chính trong giai đoạn cuối triều Trần.
Còn người em Lê Hiến Tứ được giao trấn thủ vùng biên giới Cao Bằng, nơi ông đánh dẹp giặc, ổn định dân cư. Sau đó, Lê Hiến Tứ tiếp tục xuống phương Nam đánh thắng giặc Chiêm Thành, được vua phong làm Trấn nam Tướng quân và thăng đến chức Hạ đại phu.
Dù làm quan to trong triều, hai anh em luôn nhớ quê hương. Họ xin vua cho trở về xây dựng hành cung tại Thượng Lao, giúp dân khai khơi sông đào, dẫn thủy nhập điền, đắp đường chia ruộng thành ô kiểu chữ Tỉnh, hướng dẫn dân cách trồng trọt, canh tác hiệu quả.
Họ còn đào con ngòi dẫn nước quanh làng, thông với sông Đào, sông Hồng, phục vụ tưới tiêu cho các xã Thượng Lao, Xối Thượng, Xối Tây, Xối Trì – nay là bốn thôn của xã Nam Ninh. Con ngòi này vừa phục vụ dân sinh vừa tạo điều kiện cho giao thông đường thủy, thuận lợi cho việc buôn bán, trao đổi nông sản. Tại đền Thượng Lao, còn lưu giữ đôi câu đối ca ngợi công lao hai anh em: “Nhất môn khoa hoạn song đăng bảng/ Vạn cổ cương thường biệt lập căn” (Một nhà khoa bảng hai người đỗ/ Muôn thuở cương thường một nếp riêng).
Trong giai đoạn nhà Trần suy thoái, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông rất tin tưởng Hồ Quý Ly, phong cho làm Đồng bình chương sự, tương đương chức Tể tướng nắm toàn bộ quyền hành. Hồ Quý Ly từng bước tính kế soán ngôi, muốn biết đám sĩ phu và quan lại có ai chống đối để diệt, nên tâu với Thượng hoàng Trần Nghệ Tông xin chiếu “cầu lời nói thẳng”.
Dù biết nói thật sẽ bị hại, Bảng nhãn Lê Hiến Giản cùng các kẻ sĩ dũng cảm dâng bản tấu, nêu rõ tâm địa Hồ Quý Ly, mong cảnh tỉnh Thượng hoàng. Tuy nhiên, Nghệ Tông lại giao các bản tấu cho Hồ Quý Ly xem xét, khiến ông nắm rõ những ai chống đối, tìm cách thuyên chuyển đi nơi khác.
Trạng nguyên Đào Sư Tích và Thám hoa Trần Đình Thám đều bị cách chức, thuyên chuyển, hàng trăm quan lại khác cũng bị điều đi nơi khác. Vì giận Hồ Quý Ly sát hại người trung nghĩa, Lê Hiến Giản đã kịch liệt phê phán hành động bạo ngược và bí mật tâu vua giết Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly căm ghét nhưng không thể lay chuyển lòng trung nghĩa của ông.
Khi thấy Hồ Quý Ly ngồi trên ghế sơn đen trong nhà chính sự đường, Lê Hiến Giản lớn tiếng: “Nay ông dám ngồi ghế đen, rồi nữa, ngai vàng ông cũng ngồi à?”. Hồ Quý Ly giật mình, đáp: “Xin ông hãy đổi cái bụng dạ ấy đi!”. Lê Hiến Giản cứng cỏi: “Bụng dạ trời sinh, sao có thể đổi được!” rồi ngâm bài thơ: “Ngã tâm phỉ tịch/ Bất khả quyển dã/ Ngã lâm phỉ thạch/ Bất khả chuyển dã” (Lòng ta chẳng phải chiếc chiếu/ Không thể cuốn tròn được/ Lòng ta chẳng phải hòn đá/ Không thể chuyển vần được).
Hồ Quý Ly nghe xong giận nhưng đành để bụng, không dám làm gì thêm.
Phù chính nghĩa lòng son lẫm liệt
Năm 1394, Thượng hoàng Nghệ Tông mất, vua Thuận Tông chỉ là bù nhìn, mọi việc do Hồ Quý Ly quyết định. Hắn ép vua dời đô từ Thăng Long về Tây Đô (Thanh Hóa) để cướp ngôi. Những ai khuyên vua không dời đô đều bị giết. Năm 1398, Hồ Quý Ly ép vua Thuận Tông truyền ngôi cho Thái tử An mới 2 tuổi, còn vua lên làm Thượng hoàng, ép vào quán Ngọc Thanh tu đạo, giám sát chặt chẽ.
Trước sự ngang ngược của Hồ Quý Ly, các tôn thất và quân đội Trần lên kế hoạch diệt trừ. Người đứng đầu là Trần Khát Chân, cùng Thượng trụ quốc Trần Nhật Đôn, Thượng thư Hà Đức Lân, Đại phu Lê Hiến Giản... Tuy nhiên, việc bất thành, gần 400 tướng lĩnh và quan lại Trần cùng những người liên quan đều bị hành hình. Truyền rằng trước khi bị hành hình, Lê Hiến Giản ung dung đọc bài thơ cảm khái: “Thốn nhẫn trừ tàn thiên địa bạch/ Thất tâm báo quốc quỷ thần tri” (Tấc kiếm trừ gian trời đất biết/ Tấm lòng báo quốc quỷ thần hay).
Em ông là Lê Hiến Tứ cũng tham gia mưu giết Hồ Quý Ly nên bị sát hại. Theo truyền tụng, vụ hành hình xảy ra vào ngày 12/ 12 năm Kỷ Mão (thần tích thì ghi là năm Canh Ngọ - 1390), thi hài hai ông được đưa về chôn cất tại trang Thượng Lao bên con ngòi do họ cho đào lúc sinh thời, có 4 nàng tỳ nữ theo hầu trước đây cũng gieo mình xuống con ngòi tự vẫn, chết theo hai ông. Từ đó, con ngòi này có tên là “mỹ nữ hàn khê” (ngòi mỹ nữ).
Một thuyết khác cho rằng khi Lê Hiến Giản bị xử trảm, Lê Hiến Tứ đang ở phủ Khoái Châu (Hưng Yên), biết chuyện trốn về núi Thần Thiệu (Gia Viễn, Ninh Bình) nhưng vẫn bị truy sát gắt gao; đúng một năm sau, Lê Hiến Tứ tự vẫn. Đương thời có câu đối viếng hai anh em: “Phù chính đân tâm nguyên bất tử/ Tận trung hùng khí lẫm như sinh” (Phù chính nghĩa lòng son lẫm liệt không bao giờ mất/ Hết lòng trung khí mạnh mãi mãi vẫn còn).
Một thuyết khác nói rằng Lê Hiến Giản từng sai gia tướng Nguyễn Thế Việt dắt dao hành thích Hồ Quý Ly nhưng không thành, sau đó ông bị Hồ Quý Ly hại vào ngày 12/ 12 năm Kỷ Mão (1399). Thi hài ông được vua thương tiếc, đưa về quan đồng quách đá, xuôi sông Hồng vào sông Đào (Cỗ Lễ) an táng tại cồn Cây Sơn, cánh đồng Quần Trà, cạnh con ngòi do hai ông đào. Lê Hiến Tứ cũng bị sát hại, an táng ở phía Đông Nam núi Thần Thiệu, cùng ngày 12/ 12.
Đến nay, tại Thượng Lao chỉ còn lăng Tiến sĩ Lê Hiến Giản, không có lăng mộ em ông. Lăng Lê Hiến Giản được xây dựng đời vua Thành Thái (1889), theo kiểu chồng diêm tám mái, khang trang, bốn mặt tường Đông, Tây, Nam, Bắc đều đề thơ xưng tụng.
Trong tâm thức người dân địa phương, hai vị đại khoa không chỉ là quan văn võ song toàn, trung nghĩa mà còn được suy tôn là thánh: Đức thánh cả Lê Hiến Giản, Đức thánh hai Lê Hiến Tứ. Đời Hậu Trần (1407 - 1414), Giản Định đế truy phong tước vương cho hai ông là “Nhất tự tịnh kiện vương”.
Năm Bính Ngọ (1426), Bình Định vương Lê Lợi tiến quân ra Bắc, được hai ông báo mộng. Năm 1428, khi dẹp xong giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi, ban sắc phong cho hai ông là “Thượng đẳng phúc thần”, cho thờ làm Thành hoàng. Vào thời vua Lê Chiêu Tông bị nhà Mạc cướp ngôi, Thái tử Duy Ninh và Thái úy Nguyễn Kim đóng quân trước đền, đêm nằm mơ thấy thần dâng mũ ngọc, ứng nghiệm sau này. Khi Thái tử lên ngôi (Lê Trang Tông), gia phong cho Lê Hiến Giản bốn chữ “Quan phục linh ứng”.
Thời nhà Nguyễn, xét anh em Tiến sĩ Lê Hiến Giản – Lê Hiến Tứ là những người trung nghĩa, lại đạt bốn chữ “đồng”: Đồng sinh - Đồng khoa - Đồng liêu - Đồng tử, triều đình ban Quốc tế trong các ngày hội lớn, nhân dân dựng rạp trước cửa đền để quan tỉnh về tế, khu đất ấy gọi là “Áng quan”. Chuyện linh thiêng về Đức thánh cả và Đức thánh hai là biểu hiện lòng kính phục của người dân cả vùng Sơn Nam Hạ. Việc tế lễ diễn ra vào ngày hai ông mất (12/ 12), rước thánh vị về đền chính “Đức thánh cả” Thượng Lao hợp tế.