Nguyên nhân từ giáo dục gia đình
Theo PGS Trần Thành Nam, dưới áp lực căng thẳng cộng thêm thiếu kỹ năng kỷ luật tích cực dẫn đến việc cha mẹ có xu hướng dùng các biện pháp giáo dục bạo lực với con cái của mình.
Những hành vi giáo dục bạo lực này làm cho trẻ chấp nhận rằng bạo lực là điều bình thường giữa người với người.
Hành vi bạo lực của cha mẹ được nhập tâm thành những khuôn mẫu hành vi trẻ ứng xử với người khác. Mầm mống và xu hướng thể hiện bạo lực với người khác ở trẻ đã được gieo mầm từ đây.
Việc bị người lớn đối xử thô bạo và không nhất quán sẽ làm cho trẻ luôn trong trạng thái mất an toàn. Cảm giác lo lắng, mất an toàn khiến trẻ thu mình lại, không chịu khám phá môi trường mới, không chịu hành động trong các tình huống mới hay các mối quan hệ mới.
Điều này hạn chế hoạt động của trẻ, khiến trẻ không học được các kỹ năng xã hội hay nhận thức cần thiết để tham gia các mối quan hệ xã hội trong trường học cũng như thành công trong học tập.
Những đứa trẻ có xu hướng bạo lực thường thiếu hụt các kỹ năng, như kỹ năng nhận diện và diễn giải vấn đề một cách khách quan; kỹ năng giải quyết vấn đề linh hoạt; kỹ năng nhận diện cảm xúc người khác và xu hướng quy gán hành vi của người khác mang tính thù địch do đã quen với việc bị đối xử thô bạo.
Về cơ bản, trẻ liên tục nhận những ứng xử bạo lực từ môi trường sẽ chú ý nhiều hơn, sẽ nhạy cảm quá mức với những tình huống nguy cơ. Chúng diễn giải mọi tình huống đều là nguy cơ thù địch từ đó dẫn tới cách phản ứng bột phát, mang tính thù địch cao hướng đến những đối tượng tạo ra dấu hiệu nguy cơ cho dù chỉ là vô tình.
“Minh họa rõ nhất cho vấn đề này là việc trẻ thấy người khác cười thì nghĩ ngay họ “cười đểu” mình; thấy hai bạn nói chuyện với nhau thì tin ngay là đang “nói xấu” mình. Gọi bạn mà bạn không thưa, không quay lại chào do không nghe thấy sẽ được diễn giải là bạn “thiếu lễ độ” với mình cần phải xử lý.
Trong vụ việc học trò đâm thầy giáo trọng thương, việc nhắc nhở học trò về hình xăm chắc cũng được học sinh nhận diện là một tình huống hạ nhục, xem thường mới dẫn đến việc đâm thầy thiếu lý trí như thế”, PGS Trần Thành Nam ví dụ.
Bước vào giai đoạn dậy thì, đứng trước những thay đổi về sinh lý cơ thể và bất ổn về tâm lý, trẻ rất cần sự quan tâm, chỉ bảo và giám sát của người lớn. Cha mẹ và giáo viên cần quan tâm hơn, cần dành thời gian hơn cho trẻ lúc này nhưng thực tế cho thấy đây là thời điểm cha mẹ buông lỏng việc quản lý con cái nhiều nhất.
Đặc biệt, đối với phụ huynh có con với nhiều vấn đề hành vi và thất bại học đường, vì quá mệt mỏi sau nhiều năm quản lý hà khắc mà không có kết quả, cha mẹ đến thời điểm này thường buông xuôi, mặc kệ cho con muốn làm gì thì làm.
Nhiều cha mẹ còn tránh né các tình huống phải đối mặt hay nói chuyện với trẻ để cảm thấy được nghỉ ngơi, cảm thấy không bận đầu bởi các lỗi hành vi các em gây ra.
PGS.TS Trần Thành Nam. |
Nhìn từ góc độ tâm lý học
Phân tích ở góc độ tâm lý học, PGS Trần Thành Nam cho biết:chúng ta thấy những trường hợp phạm tội không chấp nhận các chuẩn mực xã hội thông thường. Phân tích sâu về tâm lý cho thấy những cá nhân này thiếu nhận thức về hậu quả của hành động, đặc biệt là thiếu cảm nhận về những người phải hứng chịu những hậu quả ấy.
Mặc dù hành động gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng luôn tự biện minh lý giải để cho rằng những tác động của hành vi tội phạm không quá nghiêm trọng như người khác nghĩ.
Trong lý trí của những người phạm tội dạng này, họ luôn tin rằng hành động tội phạm “có lợi” hơn, giúp họ đạt được phần thưởng dễ dàng hơn hoặc thoát khỏi những tình huống khó chịu nhanh chóng hơn.
Trong cuộc sống, họ là những người thường đánh giá thấp về giá trị bản thân, thiếu khả năng kiểm soát ham muốn hoặc sự hài lòng, hay diễn giải về hành vi cử chỉ của người khác là thù địch, thực hiện hành vi phạm tội là hợp lý nhất trong bối cảnh đó và không quan tâm đến hậu quả.
Nói một cách khác, tội phạm bạo lực tăng lên vì trong xã hội chúng ngày càng có nhiều người hành động theo bản năng chỉ vì lợi ích bản thân, thiếu kiểm soát ham muốn, coi thường các chuẩn mực xã hội, vô cảm với những số phận khác.
Lý giải từ góc độ bệnh học
Những cá nhân có hành động bạo lực, theo PGS Trần Thành Nam, có thể mắc phải một dạng nào đó của một rối nhiễu tâm lý hoặc rối loạn tâm thần.
Trên thực tế, nhiều tội phạm bạo lực cũng đã được chẩn đoán là rối loạn nhân cách chống đối xã hội.
Theo các tiêu chuẩn chẩn đoán thì những người bị rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường có 7 nhóm hành vi đặc trưng như sau:
Lặp đi lặp lại việc phạm các hành vi có thể dẫn đến bị bắt giữ và thể hiện sự không quan tâm đến luật pháp.
Hành động lừa dối thông qua các hành vi như nói dối liên tục, sử dụng tên giả, lợi dụng và lừa gạt người khác để thu lợi cá nhân hoặc giải trí.
Quyết định một cách bốc đồng hoặc hành động một cách bất ngờ, và không có kế hoạch cho các hành động trong tương lai.
Dễ bị kích động, và tham gia vào hành vi xô xát bằng cách đánh nhau hoặc tấn công cá nhân.
Thể hiện sự coi thường liều lĩnh đối với sự an toàn của bản thân hoặc người khác.
Liên tục thể hiện sự vô trách nhiệm mà không quan tâm đến hậu quả đối với bản thân hoặc người khác. Họ có thể đột ngột bỏ việc mà không có kế hoạch tìm công việc khác hoặc bỏ mặc các nghĩa vụ tài chính và/hoặc trách nhiệm cá nhân.
Thể hiện sự thiếu hối lỗi cho các hành động của mình và thờ ơ khi làm tổn thương người khác hoặc tạo ra các lý lẽ sai lệch để biện minh cho việc ngược đãi người khác.
Bên cạnh đó, hiện ở Việt Nam, sự yếu kém của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, sự kỳ thị của cộng đồng về bệnh tâm thần, không có mã nghề cho nhà tâm lý thực hành chăm sóc sức khỏe tinh thần cho học sinh trong trường học dẫn đến nhiều người bị tổn thương sức khỏe tâm thần nhưng bị bỏ qua không được sàng lọc, chăm chữa.
Những hành vi bạo lực bột phát có thể là hệ lụy của sự yếu kém trong công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần cho cộng đồng, là hậu quả của bệnh tâm thần.
Luật sư Nguyễn Thị Đinh Hương giao lưu với học sinh Hà Nội về “Luật Giáo dục, Luật Trẻ em và các Quy định trong phòng, chống bạo lực học đường”. Ảnh Đăng Chung. |
Nhìn từ góc độ học tập xã hội
Dưới góc độ học tập xã hội, PGS Trần Thành Nam cho biết,ở một số khu vực, trẻ em, đặc biệt là các em nam, được khuyến khích thực hiện hành vi xâm kích. Các em được dạy rằng phải đánh trả, không được chịu thua kẻ bắt nạt. Một số xã hội khác thì biến sự trả thù trở thành một điều được chấp nhận về mặt văn hoá và vì thế thường trừng phạt những ai không tuân theo.
Hơn nữa, game, môi trường mạng xã hội và truyền thông hiện nay cũng ngập tràn bạo lực, khiến trẻ nhầm tưởng bạo lực là điều phải làm ở những anh hùng.
Có thể nói việc tiếp xúc nhiều cảnh bạo lực ồ ạt trên TV, phim ảnh, Internet và video game trong một khoảng thời gian dài dẫn đến qui tắc ứng xử (đạo đức) và lý trí bị tê liệt. Người xem mất phản xạ kiềm chế khiến cho hành vi bạo lực xảy ra nhiều hơn và dễ dàng hơn.
Từ góc độ quản lý xã hội
Dưới góc độ quản lý xã hội, PGS Trần Thành Nam cho rằng, nhiều trường hợp thực hiện hành vi phạm tội dưới ảnh hưởng của các chất gây nghiện phổ biến trong đó có rượu, ma túy hoặc các chất cấm khác. Rượu cũng làm tăng mức độ nhạy cảm đối với những gì được coi là xúc phạm hay coi thường và thường góp phần tạo ra hành vi bạo lực thiếu kiểm soát
Mặc dù chúng ta đã có nghị định 100 hạn chế rất nhiều việc uống rượu khi lái xe nhưng vẫn thả nổi việc quản lý các chất có cồn đặc biệt đối với những người trẻ có thể là nguyên nhân gia tăng bạo lực. Do bia rượu được mua rất dễ dàng và lứa tuổi nào cũng có thể mua được.
Rất nhiều trường hợp cá nhân có hành vi bạo lực đẫm máu khi có hơi men. Cá nhân có hành vi đẫm máu là con nghiện. Để thỏa mãn thú vui nghiện ngập, nhiều cá nhân lún sâu hơn vào những áp lực tài chính để mua các chất gây nghiện. Áp lực này thường dẫn đến hành vi phạm tội.
Với nhiều trẻ, con đường duy nhất để trẻ cảm thấy kết nối, được chú ý, được cảm thấy mình có “uy” là hành vi phá phách, nghịch ngợm, làm người khác phiền lòng hoặc sợ hãi. Trẻ thà vi phạm nội quy để bị quát mắng, bị đánh đập để cảm thấy kết nối còn hơn là bị phớt lờ, bị bỏ mặc hoặc không ai quan tâm như thể không tồn tại trên đời. Những cảm xúc tiêu cực này bị đè nén sẽ bùng phát thành những hành vi bạo lực bột phát trong tương lai.