(GD&TĐ) - Nói đến thơ ca thời kỳ chống Mỹ, nhiều người thường nghĩ rằng đấy là một thế hệ nhà thơ- chiến sĩ trẻ trung và hùng hậu. Có lẽ chỉ có cuộc kháng chiến lớn lao ấy của dân tộc mới có thể sản sinh ra được một đội ngũ đông đảo các nhà thơ tài hoa đến như vậy. Nhà thơ Hữu Thỉnh không chỉ là một người trong đoàn quân ấy, mà cùng với cuộc chiến và thời gian, anh đã trở thành một cánh chim đầu đàn của dòng thi ca chống Mỹ nói riêng và thi ca cách mạng nói chung.
Từ người chiến sĩ trên trận tuyến chống quân thù
Nhà thơ Hữu Thỉnh |
Nói về thế hệ các nhà thơ chống Mỹ, trước hết phải thừa nhận rằng phần lớn họ đều là những người lính cầm súng đánh giặc nơi chiến trường, ngày đêm đương đầu trước hòn tên mũi đạn, trước bao gian nan thử thách của cuộc chiến không cân sức về tiềm lực kinh tế và quân sự giữa quân đội ta và kẻ thù xâm lược. Tuy nhiên, mọi cuộc chiến không phải bao giờ chiến thắng cũng thuộc về phía những người mạnh hơn về vật chất, mà đôi khi là ngược lại. Thế hệ những người lính đánh Mỹ cách đây hơn 30 năm về trước đã chứng minh cho cả loài người thấy rằng một dân tộc dù nhỏ bé, không mạnh về tiềm lực kinh tế và quân sự, nhưng yêu đất nước mình, yêu hoà bình, độc lập và tự do thì dân tộc ấy hoàn toàn có thể chiến thắng một kẻ thù mạnh hơn họ gấp nhiều lần.
Đấy chính là nguồn cội góp phần lý giải tại sao dân tộc Việt Nam lại có thể chiến thắng đế quốc Mỹ và tại sao thế hệ những người lính như anh Hữu Thỉnh lại có thể ra chiến trường với một niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc ta. Và tại sao giữa chiến trường máu lửa khốc liệt đến như thế mà các anh vẫn cứ vừa đánh giặc vừa làm thơ. Cũng cần phải nói thêm rằng thế hệ các nhà thơ chống Mỹ phần lớn đều là những người nông dân mặc áo lính đến từ mọi miền của tổ quốc thân yêu. Họ còn rất trẻ và chưa mấy khi xa nhà, xa cái lũy tre làng nên khi ra đi họ rất hồ hởi, phấn khởi, không hề do dự đắn đo gì về được mất, thiệt hơn, thậm chí họ còn lạc quan đến mức tếu táo: “đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Quả thực có trải qua chiến tranh mới thấy chẳng có đường ra trận nào đẹp cả, mà đầy gian khổ hy sinh kể cả sức lực, tinh thần và đôi khi là cả tính mạng nữa. Nhưng những người lính nông dân lần đầu ra trận nào đâu có thấu hiểu gì nên cứ ngờ nghệch mà tếu táo vậy. Trong chiến tranh nhiều khi cái ngờ nghệch lại đem đến cho họ một sức mạnh tinh thần nào đấy để vượt qua gian khổ và hy sinh, mà nhiều khi quá sức chịu đựng đối với họ. Bởi lẽ, trong cảnh bom rơi đạn nổ, mọi suy nghĩ đắn đo hay những giọt nước mắt nào đâu có ích gì, thà cứ cười lên, đùa vui đi cho thỏa chí nam nhi.
Có thể nói đấy là phần đời và có thể coi đấy là một bên cánh vô cùng vững chãi của con chim đầu đàn thi ca chống Mỹ, nhà thơ Hữu Thỉnh.
Đường ra trận (ảnh minh họa) |
Đến một nhà thơ đầu đàn của thơ ca chống Mỹ
Thực ra, nói nhà thơ Hữu Thỉnh là cánh chin đầu đàn của thi ca chống Mỹ cũng đúng, nhưng chưa trọn nghĩa. Bởi lẽ sự nghiệp thơ ca của anh được nuôi dưỡng và nảy mầm từ cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Dù quãng thời gian ấy vô cùng quan trọng trong việc hình thành phong cách thơ của anh, nhưng 36 năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, anh vẫn tiếp tục làm thơ và có thể coi giai đoạn sáng tác thơ sau này của anh cũng quan trong không kém. Nó đã tạo nên một sự hoàn thiện đáng kể đối với sự nghiệp văn chương của anh. Nhìn vào thời gian xuất hiện các tác phẩm của anh, chúng ta có thể thấy phần lớn số lượng được hoàn thành và xuất bản sau này. Chỉ có tập thơ đầu tay “Âm vang chiến hào” của anh là được xuất bản vào năm 1976. Trong tập này có hai bài thơ mà anh đã đoạt giải A cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ năm 1975- 1976 là “Chuyến đò đêm giáp ranh” và “Sức bền của đất”. Điều thú vị là cả hai bài thơ trên chính là hồn cốt của hai trường ca cùng tên mà mãi sau 24 năm anh mới kịp hoàn thiện.
Các tác phẩm chính: các tập thơ “Đường tới thành phố” (Trường ca- 1979), “Khi bé Hoa ra đời” (Thơ thiếu nhi- in chung), “Thư mùa đông” (thơ 1994), “Trường ca Biển” (1994), Thơ Hữu Thỉnh (1998), “Sức bền của đất” (trường ca, 2004), “Thương lượng với thời gian” (thơ 2005)…Cần nhớ rằng trước khi đoạt giải A cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ, nhà thơ Hữu Thỉnh đã đoạt giải C ở cuộc thi thơ của báo này vào năm 1972- 1973. Đến năm 1980, anh nhận Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam với trường ca “Đường tới thành phố” và năm 1995 với tập thơ “Thư mùa đông”; Giải xuất sắc của Bộ Quốc phòng năm 1994 với “Trường ca biển”, năm 1999 anh nhận Giải thưởng Văn học ASEAN. Năm 2001, nhà thơ Hữu Thỉnh được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học Nghệ thuật đợt I. |
Như vậy có thể thấy với anh văn chương (thơ) là một quá trình phấn đấu liên tục không ngừng nghỉ, dù về sau nay anh phải đảm đương nhiều công việc của Hội và của Quốc hội. Với nhiều người khác có thể không còn thì giờ để cho thơ nữa. Nhưng với anh Hữu Thỉnh dường như là càng bận, anh lại càng làm thơ hăng và thơ anh ngày càng gắn chặt hơn với đời sống của người dân thời “cơm áo, gạo tiền”: Buổi sáng lo kiếm sống/ Buổi chiều tìm công danh/ Buổi tối đem trí khôn ra mài rũa/ Tỉnh thức/ Những hàng cây bật khóc (“Thương lượng với thời gian”).
Một trong những bài thơ của anh mà tôi thích nhất là bài “Nghe tiếng cuốc kêu”. Ở đây tôi nhận ra một anh Hữu Thỉnh sâu thẳm trong suy tư, nhưng vẫn rất lính và chưa hề phai nhạt duyên phận với nàng thơ thưở nào: Những đám mây bay đi/ Tôi với người ở lại/ Cuốc kêu ngoài bến sông/ Cuốc kêu vì bẫy hiểm/ Bèo leo nheo nước lên... Cuốc kêu từ ngày cây tre chưa đủ lá đan sang.../ Cuốc kêu từ ngày em lạy mẹ lạy cha/ Đi theo một sợi tơ hồng/ Về với anh thành vợ thành chồng/ Tình yêu nhiều đứt nối/ Ta xin rừng một chiếc giường con/ Xin đất một chiếc ấm nhỏ/ Một đời người mà chiến chinh nhiều quá/ Em níu giường níu chiếu đợi anh/ Em trát những người con trai đẹp/ Đợi anh/ Chỉ mong anh về/ Áo rách cũng thơm/ Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc/ Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc/ Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau/ Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế...
Ở cái thời buổi con người sống phải nhờ vào những chiếc bẫy hiểm để bắt con vật hay là giăng bắt đồng loại, thì than ôi... (!?). Trong chiến tranh sao con người sống với nhau thân thiện, đối xử với nhau nhân bản thế. Thân thiện và nhân bản là hiện thân của hạnh phúc mà ai cũng cần. Nhưng điều đó có lẽ chỉ đúng khi con người phải tựa vào nhau để tồn tại qua cơn hiểm nguy của số phận mà thôi. Đến khi bình yên xây dựng cuộc sống, những hạnh phúc xem chừng rất nhỏ nhoi như Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc cũng chỉ là một giả tưởng.
Cũng là chuyện không mấy khó hiểu tâm trạng của nhà thơ lúc này. Những người sống nghĩa tình nhất bao giờ cũng là những người đau khổ nhất khi gặp cảnh đời éo le, tráo trở. Đọc những câu thơ như thế này lòng ai chẳng quặn đau đến cháy mềm gan ruột, nếu như người đó chưa thật sự mất hết nhân tính: Mỗi lần sau đám tang/ Lòng ai cũng héo/ Dạ ai cũng sầu/ Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa/ Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ/ Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế/ Giếng nước than lắm kẻ chao chân/ Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời/ Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi/ Tôi ngồi buồn như lá sen rách...
Có thấu hiểu được lòng người, lẽ đời mới thấy được sự cao thượng, lớn lao và rất đỗi con người của nhà thơ qua những con chữ xé nát tâm can này. Tôi tin rằng anh Hữu Thỉnh phải khó khăn, thậm chí là đau khổ lắm trong nhiều đêm, nhiều tháng, nhiều năm mới có thể viết được những câu thơ như thế. Và tôi tin rằng với một tấm lòng đầy trắc ẩn và một tâm hồn nhạy cảm như anh, nàng thơ sẽ chẳng thể buông tha anh suốt cuộc đời này. Chúc mừng anh đã, đang và sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trên con đường sáng tạo thi ca./.
Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh ngày 15-2-1942 với tên khai sinh là Nguyễn Hữu Thỉnh. Anh quê ở làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Từ hòa bình lập lại (1954) anh Hữu Thỉnh mới được đi học. Năm 1963, vừa tốt nghiệp phổ thông, anh vào bộ đội, là lính của Trung đoàn 202, binh chủng tăng thiết giáp. Sau thời gian huấn luyện anh vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Sau năm 1975, anh được cử đi học tại trường viết văn Nguyễn Du khóa I. Từ năm 1982, anh đã kinh qua nhiều cương vị công tác như: Biên tập viên rồi Trưởng ban thơ và làm Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ năm 1990, nhà thơ Hữu Thỉnh chuyển sang làm Tổng biên tập Tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội nhà văn các khoá 3, 4, 5, 6, 7. Đại biểu Quốc hội khoá X, XI. Hiện nay anh là bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương, Chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng Viết văn Nguyễn Du. |
Viên Lan