Ai đã từng một lần về vùng sông nước Cửu Long đều khắc ghi câu ca dao:
Đồng Nai có bốn rồng vàng
Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi.
Hay : Vĩnh Long có cặp rồng vàng
Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan Tuấn Thần (tức Phan Thanh Giản).
Nghĩa thi chính là Bùi Hữu Nghĩa - con Rồng vàng của đất Đồng Nai, Vĩnh Long, rồng vàng trong lòng nhân dân Nam Bộ. Cho đến nay các ông Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn là những ai thì ít người biết và chưa xác định được quê quán, tài năng của họ ra sao. Còn Phan Thanh Giản, tài thơ, người đầu tiên đỗ Tiến sĩ ở Nam Bộ, có học vị cao nhất cũng phải xếp sau Bùi Hữu Nghĩa, đủ thấy danh hiệu Rồng vàng mà nhân dân phong tặng cho Cụ thật cao quý và xứng đáng biết bao!
Nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa |
Bùi Hữu Nghĩa tên thật là Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghi Chi, sinh năm Đinh Mão (1807) tại thôn Bình Thủy, huyện Vĩnh Định thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Đến triều Minh Mạng (1836) đổi là thôn Bình Thủy, tổng Định An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang, và hiện nay là phường Bình Thủy thuộc Thành phố Cần Thơ.
Cụ sinh ra trong một gia đình làm nghề chài lưới và tài thơ phú đã nổi tiếng khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Cụ đỗ Thủ khoa kỳ thi Hương ở Gia Định tháng 2 năm Ất Mùi (1835)- năm Minh Mạng thứ XVI. Vì vậy nhân dân thường gọi Cụ một cách thân mật là Thủ Khoa Nghĩa. năm Bính Thân (1836) ông ra Huế thi Hội, nhưng rớt vì phạm húy nhẹ, bị vua Minh Mạng bắt giữ ba ngày, rồi được tha.
Tiếp theo là những năm tháng thăng trầm trên con đường hoạn lộ : Lúc làm Tri huyện Phước Chánh (Biên Hòa), khi làm Tri huyện Trà Vang (Vĩnh Long), rồi bị giáng chức làm Thủ ngự đồn Vĩnh Thông (Châu Đốc), sau đó lại được thăng chức Phó quản cơ, rồi Quản cơ cho tới khi từ quan về ở ẩn (1858).
Trên 24 năm làm quan, Cụ luôn nêu cao nghĩa khí, đứng về phía nhân dân chống lại bon quan lại tham nhũng, nêu cao tinh thần trọng nghĩa khinh tài, giữ vững sĩ khí đúng như một vế câu liễn ghi ở đền thờ Cụ: Cương dũng đả cường hào, sĩ khí thiên thu bất hủ.
Con đường làm quan của Cụ chính là để có điều kiện đem tài năng giúp dân, cứu nước. Cụ luôn phất cao cờ nghĩa, chiến đấu trực diện với kẻ thù cho tới khi cáo quan về nhà dạy học, làm thuốc, sáng tác thơ văn. Ý chí ấy trước sau như một, theo đạo lý của kẻ sĩ : Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã/ Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng (thấy việc nghĩa mà không làm không phải là người dũng cảm, gặp người khác lâm nguy mà không cứu, không phải là người anh hùng). Mặc dù đã từ quan nhưng Cụ vẫn bí mật giúp nghĩa quân Phan Tôn, Phan Liêm (con Phan Thanh Giản) mở rộng thế lực ở Cần Thơ và Vĩnh Long trong những năm 1867-1868, bí mật làm cố vấn cho nghĩa quân Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự ở Cần Thơ (1869). Tấm lòng yêu nước vì dân của Cụ giữ trọn cho tới khi lâm bệnh, và mất ngày 21 tháng 01 năm Nhâm Thân (tức ngày 29/ 2/ 1872- năm nhuận có 29 ngày). Hiện nay khu bia mộ nhà thơ nằm tại phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, Thành phố Cần Thơ, đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích văn hóa – lịch sử năm 1993. Nhiều địa phương đã lấy tên Cụ để đặt tên cho trường học, đường phố, tỏ lòng tri ân Uống nước nhớ nguồn.
Khu mộ nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa |
Thơ văn của Cụ Nghi Chi Bùi Hữu Nghĩa để lại cho chúng ta ngày nay không nhiều lắm do khói lửa chiến tranh làm thất lạc. Nhiều bài, nhiều giai thoại còn tồn nghi. Ông Phạm Duy Tư, nguyên Hiệu trưởng trường PTTH Bùi Hữu Nghĩa ở TP Cần Thơ đã công sưu tầm, hiệu đính, chú giải và tập hợp được một số thơ văn, giai thoại thành cuốn Giai thoại và thơ văn Bùi Hữu Nghĩa (Ban Khoa giáo tỉnh ủy Cần Thơ (cũ) Xuất bản tháng 2/1994). Với 18 giai thoại, 39 bài thơ chữ Hán, chữ Nôm, văn tế cùng một số bài thơ khác ca ngợi Bùi Hữu Nghĩa… đã là tài liệu quý, có độ tin cậy cao cho chúng ta làm tư liệu. Ngoài số thơ văn và câu đối, Cụ còn có vở tuồng nổi tiếng Kim Thạch Kỳ Duyên, còn hai vở Tây Du và Mậu Tòng chưa sưu tầm được.
Đề tài thơ văn Bùi Hữu Nghĩa rất phong phú, đa dạng. Từ cảnh thôn quê dân dã đến cảnh rừng núi, thành thị, chốn cung đình, đều có mặt trong thơ. Mỗi lời thơ, áng văn như thấm đượm nỗi thương ghét rạch ròi theo tuyên ngôn nghệ thuật mà Nguyễn Đình Chiểu- bạn Cụ, đã từng tuyên bố :
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Sĩ khí của Cụ giữa cơn nước lửa không hề vơi :
Xông cơn nước lửa dư trăm trận
Công nghiệp nay đà đáng mấy thoi (Đũa bếp).
Cụ vạch mặt bọn quan lại xu nịnh, độc ác, đục khoét của dân làng. Lòng dạ chúng như cây vông lộp xộp, nhưng chứa đầy gai góc :
Da thịt càng già càng lộp xộp
Ruột gan chẳng có, có gai chông (Cây vông).
Bọn chúng là loài cáo vườn hoang chỉ giỏi mượn oai hùm, tâm địa trâng tráo như Ái Châu trong Kim Thạch Kỳ Duyên toát lên cái vẻ bề ngoài lòe loẹt, đáng ghét :
Nhởn nhơ, áo áo, khăn khăn
Nha nhuốc, vòng vòng, chuỗi chuỗi.
Tên quan trùm thì nghe quan rụt cổ, thấy lệ lắc đầu. Tên quan huyện Lợi Đồ có chân tướng thảm hại như ruồi bu đuôi ngựa nhưng luôn mồm khoe mẽ, hoạch hoẹ :
Nghênh ngang đầu dọc trăm quan
Đỏng đảnh miệng khua chín bệ
Cụ xem bọn chúng như cây bần chẳng có sức chống đỡ nhà lớn mà lại vênh váo làm dáng, chẳng khác gì loài cò, loài khỉ :
Quyến luyến bầy cò bay sập sận
Chiêu qui bầy khỉ tới vần lân
Cụ cũng đã sát cánh cùng Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt tấn công tới tấp, vạch mặt tên phản nước Tôn Thọ Tường bằng những vần thơ đanh thép, rực lửa :
Hùm nương non rậm đang chờ thuở
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Nhưng phải tới bài Ai xui Tây đến, chất thép trong thơ Bùi Hữu Nghĩa mới phát nổ như đại bác bắn vào thực dân Pháp và bọn tay sai:
Ai khiến thằng Tây tới vậy cà?
Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba
Hẳn hòi ít mặt đền nợ nước
Nháo nhác nhiều tay bận nỗi nhà.
Đá sắt ôm lòng cam với trẻ
Nước non có mắt thấy cho già
Nam Kỳ chi thiếu người trung nghĩa
Báo quốc cần vương dễ một ta?
(Đăng trên Mítslave của Pétrutky – Sài Gòn 1889)
Bài thơ đã được dịch ra tiếng Pháp làm cho kẻ thù ăn không ngon ngủ không yên một thời. Ai khiến thằng Tây tới vậy cà? là một câu hỏi tu từ không cần trả lời mà người đọc vẫn tìm ra kẻ cõng rắn cắn gà nhà, rước voi dày mả tổ chính là Nguyễn Ánh và triều đình nhà Nguyễn tham sống sợ chết. Phái chủ hòa chiếm số đông trong triều do Tôn Thọ Tường cầm đầu, cùng với vua Tự Đức luôn luôn sợ sức mạnh của Chủ nghĩa tư bản phương Tây. Quan lại thì Hẳn hòi ít mặt đền nợ nước/ Nháo nhác nhiều tay bận nỗi nhà. Bọn mũ cao áo dài ấy Khi bình làm hại dân ta / Túi tham mở rộng chẳng tha miếng gì / Đến khi hoạn nạn gian nguy / Mặt trông ngơ ngác chân đi gập ghềnh (Chính khí ca – Vô danh).
Sau năm 1867, cả Nam Kỳ lục tỉnh rơi vào tay thực dân Pháp, cụ Phan Bội Châu, nhà chí sĩ yêu nước cũng phải than vãn :
Than ôi lục tỉnh Nam Kỳ
Ngàn năm cơ nghiệp còn gì nữa không ?
Nhưng người trung nghĩa ở Nam Kỳ không phải ít, mà sau này họ đã tập hợp lại thành phong trào tỵ địa rồi phong trào cần vương yêu nước. Lúc bấy giờ vua Hàm Nghi mới 12 tuổi, Tôn Thất Thuyết đứng đầu phái chủ chiến, đề xướng phong trào này. Cụ Nghi Chi Bùi Hữu Nghĩa đã tự hỏi mình mà cũng là kêu gọi những sĩ phu giàu lòng nghĩa khí :
Nam Kỳ chi thiếu người trung nghĩa
Báo quốc cần vương dễ một ta?
Cụ vẫn hy vọng một ngày kia sẽ có một vị minh lương tập hợp phong trào, rửa nhục cho nước. Dù tuổi đã cao, Cụ vẫn dốc lòng báo quốc:
Hùm nương non rậm đang chờ thuở
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Và tin tưởng mãnh liệt :
Anh hùng sáu tỉnh thiếu chi đây
Đâu để giang sơn đến nỗi này? (Thời cuộc)
Ước mơ cháy bỏng tâm can của Cụ là nước nhà được độc lập, người dân được sống thanh bình :
Nước non ví mà như cũ được
Trong tuần say mãi sướng hơn không?
Nếu chất thép trong thơ Cụ luôn loé sáng, rực lửa thì chất tình càng chứa chan hơn. Hai yếu tố ấy luôn hòa quyện vào nhau trong trái tim của người nghệ sĩ- chiến sĩ. Trong thơ Bùi Hữu Nghĩa có tiếng thét căm hờn quân cướp nước, lũ bán nước, và có cả tiếng khóc xót thương cho những người dân vô tội bị giết hại trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Bài Quá Hà Âm cảm tác là tiếng lòng của Cụ trước những đống xương vô định, những vũng máu bầm ứ, vẽ nên bức tranh ảm đạm, dật dờ có sức cảm thông lớn, sức tố cáo cao tội ác dã man do quan quân triều đình nhà Nguyễn gây ra (Thời Minh Mạng – Thiệu Trị) :
Mịt mù mây đen kéo tới sầm
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm
Đống xương vô định, sương phau trắng
Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm
Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy
Đèn trơi leo lét dặm u lâm
Nghĩ thương con tạo sao dời đổi
Dắng dỏi đêm trường tiếng dế ngâm.
Với bài thơ này, Cụ như một chứng nhân của lịch sử. Bài thơ là bức tranh tang thương, trời không trăng sao, tối sầm, chỉ có mây đen mịt mù, từng cơn gió thổi xoáy, một bãi tha ma khổng lồ với ánh sáng leo lét của đèn trơi (dân gian thường gọi là ma trơi). Những đống xương vô tội trắng phau, cỏ cây trong màn đêm như được nhuộm thắm bằng những vũng máu bầm thâm. Đó là vũng máu phi thường của nghĩa quân và của những người dân vô tội bị sát hại, mãi mãi mang màu sắc ảm đạm của cõi u lâm. Đó là bản cáo trạng quan quân triều Nguyễn, và cũng là nỗi lòng xót xa đau đớn của trái tim nhân đạo cao đẹp của Cụ.
Bùi Hữu Nghĩa không những là người chiến sĩ hết lòng vì dân vì nước, mà còn là một người chồng rất mực thủy chung, người cha thương yêu con vô hạn. Ở chùm thơ Vịnh ngũ luân có bài Phu - Phụ nói về quan hệ vợ chồng. Tác giả đã không xếp thứ bậc theo đạo Nho quy định kiểu tam cương, ngũ thường, mà xếp Phu (vợ) lên trước Phụ (chồng), đủ thấy sự tôn trọng của Cụ đối với người phụ nữ. Cụ có một quan niệm tiến bộ về đạo vợ chồng là phải cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, và gắn bó thuỷ chung:
Khi nghèo đồng chịu, giàu đồng hưởng
Kết tóc trăm năm mới đặng lòng.
Ở vở tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, Cụ đã ngợi ca Kim Ngọc, bộc lộ tình thương, lòng biết ơn đối với vợ là Vô Hà, đã chăm sóc mình lúc ốm đau và nuôi mình ăn học:
Thương những vợ phong tư, gặp lúc chồng tật bệnh / Hổ bấy mặt dày mày dạn, tiếc thay mình ngọc vóc ngà… / Hổ phận chồng khó nổi cầm lòng, thương thân vợ càng thêm hổ mặt / Chừng ấy dầu an vóc ngọc, ơn kia đáng đúc nhà vàng.
Hình bóng của Vô Hà và Kim Ngọc đã in đậm nét vào mối tình sâu nặng của Cụ với vợ là bà Nguyễn Thị Tồn.
Bà Tồn cương trực nghĩa khí, thương chồng con hết lòng. Khi Cụ bị kết án tử hình ở vụ Láng Thé, bà Tồn đã lặn lội ra tận triều đình Huế để gióng trống kêu oan ở tòa Tam Pháp. Mẹ vua Tự Đức là Thái hậu Tù Dũ đã cảm động và tặng bà bốn chữ Liệt phụ khả gia. Vua Tự Đức đã xóa án tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, giáng chức, đày đi làm lính thú ở biên thùy An Giang. Khi về tới nhà, bà Tồn đã bệnh nặng và mất. Bùi Hữu Nghĩa đã viết những lời văn đầy nước mắt qua đôi câu đối thờ vợ, vừa ca ngợi công đức của bà Tồn vừa xót xa ân hận với mình:
Tớ nghèo mình lo giúp, tớ oan mình lo kêu, chòm xóm đều khen mình đáng vợ. Mình đau tớ chẳng nuôi, mình chết tớ chẳng táng, non sông cười phận tớ làm chồng.
Ở bài Văn tế vợ lời lẽ chứa chan nỗi đau và tình đằm thắm thiết tha. Ông hết lời ca ngợi tính nết của vợ hiền:
Ăn ở kiệm cần, giàu không khoe, khó cũng không dua, mua nghĩa chác nhơn, trước chẳng phai, sau chẳng lạt, hoặc “Chồng vợ đều không cha mẹ, em luống thân phận lẻ loi / Cậu cô hòa cửa anh em, tình vui thuận lời không chếch mác”.
Tiếng khóc vừa ai oán vừa như ghen với đất trời:
Đất chẳng phải chồng, sao gởi thịt xương cho đặng / Trời không mất vợ, thử xem gan ruột làm sao?.
Tai ương liên tiếp đến với Bùi Hữu Nghĩa, thật phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Đứa con gái đầu lòng Bùi Thị Xiêm mất tại Phước Long lúc mới ba tuổi, đứa con trai thứ hai là Bùi Hữu Vàng cũng không nuôi được. Lúc ông lâm nạn đứa con trai thứ ba Bùi Hữu Tú mới chín tuổi, bà Tồn phải gởi người thân là ông Quản Kiệm trông nom để bà ra Huế kêu oan cho chồng. Cụ đã nêu được hoàn cảnh ấy trong bài tế :
Con chín tuổi thơ ngây, một bóng em bao đành nhắm mắt tầm tiên/ Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nỡ sắp lưng cỡi hạc… Đêm khuya hãy nâng niu một trẻ, nghĩ từ con ruột tợ kim châm/ Ngày ra vào vắng vẻ không em, nhớ từng chặng gan dường muối xát.
Ba năm sau, khi Cụ ra thăm mộ vợ, vẫn cảm thấy như bà ở đâu đây:
Đã chẵn ba năm mới đặng thăm
Màn loan đâu vắng bặt hơi tăm
… Có linh chín suối đừng sao lãng
Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm.
(Đề nhà mộ vợ)
Khi con gái mất, Cụ cũng có một bài văn tế thấm đẫm nước mắt và lòng tiếc thương:
Thảo với cha, lành với mẹ như bát nước ỷ không xao/ Ra cùng xóm, ở cùng làng, ước hột cơm đà chẳng cắn / Chị hay niềm, em hay nở, ai mà chẳng dấuchẳng yêu / Ăn bữa trước, lo bữa sau, mẹ đà khỏi dò, khỏi dặn.
Và đây là lời thầm thì như tiếng nói giữa hai cõi âm dương của người cha nói với con:
Đường ra lối vào còn đó, con đi đâu cho cỏ mọc xanh/ Thúng may rổ vá còn đây, con đi đâu cho mốc meo đóng trắng ?
Với hai bài văn tế vợ và con, cùng với Quá Hà Âm cảm tác cũng đủ thấy cái tình vời vợi của Cụ với người thân và với mọi kiếp người.
Được đào tạo từ nơi cửa Khổng sân Trình, nhưng ở Bùi Hữu Nghĩa không có sự tôn thờ hai chữ trung quân một cách mù quáng. Trong thơ Cụ, ta không thấy có chỗ nào gắn đất nước với vua chúa và nhà nước phong kiến, mà chỉ nói đến trách nhiệm của mình trước vận mệnh dân tộc, như các bài: Thời cuộc, Tức sự, Ngọa bệnh, Ký thá, Ai xui Tây đến?… Bùi Hữu Nghĩa cũng không coi phụ nữ là nữ nhi thường tình như một số bậc túc Nho khác. Qua một số bài văn tế và vở tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên ông đã ngợi ca thiên chức của người vợ, người mẹ, người em gái.
Đối với việc học tập, Cụ luôn khuyên học trò :
Dẫu có ruộng vườn năm bảy mẫu
Sao bằng kinh sử một đôi pho.
Đặc biệt Cụ xác định cho họ một thái độ học tập đúng đắn, tránh lối học thụ động, nhồi nhét, tránh xa mọi sự quyến rũ khác :
Có công đi học phải lo toan
Chơi bời hoa nguyệt đừng mơ tưởng
Học hỏi vàng thau phải đắn đo.
Với đạo quân thần Cụ quan niệm :
Minh lương hai chữ vầy trên dưới
Nước trị, nhà an, bốn biển vui.
Đạo cha con phải: Cha lành, con thảo tiếng thơm còn.
Đạo vợ chồng phải: Khi nghèo đồng thực, giàu đồng hưởng
Tình nghĩa trăm năm ở hết lòng
Đạo anh em phải: Sanh cùng một cội, cùng xương thịt
Sống thác nương nhau, cứng vực mềm
Đạo bằng hữu phải : Dàm dáo nương nhau ở lấy tình
… Giúp lời nhân nghĩa tiếng càng xinh.
Đối với đời, Cụ luôn ấp ủ hy vọng :
Mong ước non sông như thuở trước
Đất trời say ngất một tao ông. (Tức sự)
Với triều đình, Cụ là một vị quan thanh liêm chính thực. Với dân tộc, Cụ là một công dân yêu nước, luôn lấy dân làm gốc. Với gia đình, Cụ là một người cha kính mến, người chồng thủy chung. Với bạn be,ø anh em, Cụ là một người bạn tốt, người anh hiền, người em quý. Tấm lòng trung nghĩa của cụ như phơi ra giữa trời đất, đúng như một vế câu đối ở mộ Cụ: Trung can đồng ái quốc, nghĩa khí hiệp ưu gia.
Cụ Nghi Chi Bùi Hữu Nghĩa đã trở thành hào khí Đồng Nai là Rồng vàng của đất chín rồng, là niềm tự hào của nhân dân cả nước. Người thi sĩ – chiến sĩ ấy bằng lưỡi gươm và ngòi bút lông đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, là một nghệ sĩ lớn trên nhiều lĩnh vực: nhà quân sự, nhà thơ, nhà văn, nhà soạn tuồng, nhà giáo, nhà thuốc… Tất cả nghị lực và tâm hồn của Cụ vằng vặc sáng hai chữ Trung Nghĩa. Thơ văn của Cụ mang hơi thở của vùng sông nước Cửu Long, thấm đượm chất dân gian với nhiều thành ngữ, tục ngữ được dùng rất sáng tạo :
Mụ lớn đừngnói ớt nói tiêu
Dì nhỏ chớcà riềng cà tỏi
… Những tưởngthuốc linh thời đã lạt
Hay đâunước lã khuấy nên hồ.
(Kim Thạch Kỳ Duyên)
Hay: Miệng hùmhay nói liến, gan sứađã chạy ngay.
Rất nhiều điển tích, điển cố của Trung Hoa đã được Cụ Việt hóa theo cách cảm, cách nghĩ của người Nam Bộ. Đối với tục ngữ, thành ngữ có khi Cụ dùng nguyên vẹn, có khi tách ra một vế xen vào lời văn : Ngọn đèn gió bạt, Dầu dãi nắng mưa, ăn cần ở kiệm, giàu không khoe, khó không đua, ruột tợ kim châm, gan dường muối xát, gió nữ, mưa ngâu… Đôi khi Cụ còn vận dụng lối lẩy Kiều hoặc lối kể chuyện dân gian, vừa đọc vừa kể Vân Tiên. Từ câu Kiều của Nguyễn Du: Kiều càng sắc xảo mặn mà / So bề tài sắc lại là phần hơn, thì Cụ viết ở bài Vịnh Kiều có câu :
Nghĩ Thúy Kiều tài sắc kém chi ai
Sắc có một mà tài biết mấy?
Chính vì thế mà thơ văn của Bùi Hữu Nghĩa có sức sống lâu bền trong lòng người đọc nhiều thế hệ.
Đã hơn một thế kỷ trôi qua, kể từ ngày Cụ ra đi, những vần thơ và tấm lòng trung can nghĩa hiệp của Cụ vẫn chói sáng, thúc giục bao thế hệ cầm bút, cầm súng và để lại cho chúng ta nhiều bài học làm người. Phần mộ của nhà thơ từ năm 1872 đến nay đã được trùng tu bốn lần, bất chấp sự dòm ngó của kẻ thù trong thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ (1942, 1964, 1975, 1987). Bia đá cũ còn nguyên hàng chữ:
Đại Nam Hiển Khảo giải nguyên Bùi phủ quân chi mộ
Tết vu Nhâm Thân niên, chính nguyệt, niệm nhất nhật.
(Nam Bùi Hữu Tú kính lập)
Trước mộ Cụ có đền thờ ghi hai chữ lớn làm bài vị: Trung Nghĩa. Nhớ tới Cụ là nhớ tới Rồng vàng của đất Cửu Long, nhớ tới người chiến sĩ đi tiên phong trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp bằng ngòi bút và bằng hành động thiết thực. Chất thép và chất tình luôn thấm đẫm trên mỗi trang thơ, trang đời của Cụ.
Lê Xuân