Bàn thêm về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò

GD&TĐ - Vai trò của lý luận văn học đối với việc dạy của thầy và việc học của trò là vô cùng cần thiết.

Lý luận văn học là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát nhằm tìm ra những quy luật chung nhất về văn học. Trong đó bao gồm sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội-thẩm mỹ của văn học, đồng thời xác định phương pháp lý luận và phân tích văn học.

Lý luận văn học tồn tại như một môn học độc lập ở một số trường đại học, nó cũng là một phân môn cho sinh viên và học sinh trung học phổ thông thế hệ trước. Cho dù độc lập hay là phân môn của môn Ngữ văn thì vai trò của Lý luận văn học là vô cùng lớn.

Không phải ngẫu nhiên, hiện nay, có Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương và các chi hội Lý luận phê bình tại các Hội Văn học nghệ thuật địa phương (cấp tỉnh).

Cũng không phải ngẫu nhiên có các báo, tạp chí chuyên ngành về lý luận phê bình văn học, nghệ thuật (như Tạp chí lý luận phê bình văn học, nghệ thuật của Ban Tuyên giáo Trung ương hoặc các báo Văn nghệ, Văn nghệ Công an, Văn nghệ quân đội cũng có chuyên mục cho Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật…).

Và, một bài giảng chất lượng, nhất là bài giảng bộ môn Ngữ văn phải có tính lý luận. Một bài viết văn của học sinh trung học phổ thông có giá trị nhất định phải có tính lý luận.

Vậy, thế nào là một bài giảng về tác phẩm văn học có tính lý luận? Và thế nào là bài viết của học sinh trung học phổ thông có tính lý luận? Đó là vấn đề người viết quan tâm.

hoc-sinh-02.jpg

Thế nào là một bài giảng có tính lý luận

Một bài giảng có tính lý luận là bài giảng vận dụng sáng tạo, không khuôn mẫu, không khiên cưỡng, gò ép, không sơ cứng các kiến thức Lý luận văn học vào bài giảng của mình, giúp học sinh hiểu sâu kiến thức trong tính chỉnh thể, có chiều sâu. Đó là các bài giảng mà giáo viên hướng dẫn học sinh sao cho học sinh chủ động tiếp cận kiến thức và chủ động thể hiện năng lực, phẩm chất vốn có cũng như phẩm chất cần hướng tới.

Tại bài giảng đó, giáo viên có cách hướng dẫn các em đặt bài học trong tính chỉnh thể của hệ thống, ví dụ học Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” thì cần đặt trong hệ thống các tác phẩm của Thạch Lam, làm rõ phong cách Thạch Lam: Truyện không có cốt truyện, truyện mang tính trữ tình, truyện không lấy ngôn ngữ, hình ảnh bên ngoài làm chính mà thường khơi gợi suy nghĩ, đi vào thế giới chiều sâu bên trong của con người một cách nhẹ nhàng và tinh tế.

Học thơ tình Xuân Diệu phải hiểu Xuân Diệu là “ông hoàng của thơ tình yêu”, là người luôn “khát khao giao cảm với đời” theo cách riêng: vồ vập, đắm say và trân trọng, níu giữ từng khoảnh khắc hiện diện trên cõi đời này. Khai thác ngôn từ trong thơ Xuân Diệu phải là những động từ, tính từ bộc lộ cảm xúc và hành động mạnh mẽ… như “Mau với chứ, vội vàng lên với cứ/Em ơi em tình non sắp già rồi”, Hoặc “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”...

Bên cạnh việc đặt tác phẩm trong hệ thống, trong mối quan hệ với chỉnh thể, trong việc làm nổi bật phong cách tác giả vì tác phẩm luôn là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan mà tác giả miêu tả thì còn cần khai thác các chức năng vốn có của văn học, tiêu biểu như các chức năng: nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ.

Ví như học truyện Thạch Lam sẽ yêu làng quê bình dị mà đằm sâu tình cảm (tình bà cháu, tình bạn ở ngưỡng cửa tình yêu… trong truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan) hay học thơ tình Xuân Diệu thì phải thấy được việc trân trọng từng phút giây của cuộc sống, yêu con người, yêu thiên nhiên với tình yêu luôn luôn ở trạng thái đắm say, mãnh liệt (qua bài thơ Vội vàng…). Điều đó nhân lên năng lượng sống cho con người có thái độ và trách nhiệm sống tích cực hơn.

Khi nói về tính đa nghĩa của ngôn từ trong tác phẩm, hay tính lịch sử của tác phẩm cũng chính là bàn đến tính lý luận trong tác phẩm văn học. Tính đa nghĩa cho ta nhìn nhận đa chiều để hiểu sâu điều tác giả gửi gắm qua ngôn từ. Khi học câu thơ “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/Mặt trời chân lý chói qua tim” của Tố Hữu cần phải hiểu tính đa nghĩa của hình ảnh được nâng lên thành biểu tượng “Mặt trời”. Khi đọc những câu thơ:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc dắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)

thì phải hiểu từ lộc mang tính đa nghĩa, hiểu theo nghĩa bóng khi nhìn thấy hình ảnh từ nghĩa đen.

Tính lịch sử cho thấy đặt tác phẩm đúng thời kỳ, đúng giai đoạn lịch sử thì tác phẩm phát huy tối đa giá trị cần có. Ví như tác phẩm “Từ ấy” của Tố Hữu, giúp học sinh hiểu bài thơ thì ngoài việc hiểu phong cách thơ Tố Hữu, ngoài việc khai thác các yếu tố nghệ thuật như ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu… nhằm biểu đạt hạnh phúc của chủ thể - của người chiến sỹ cộng sản khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, còn cần phải cung cấp cho các em kiến thức lịch sử, bối cảnh ra đời tác phẩm vì thế hệ học sinh bây giờ khác xa những năm đầu của thế kỷ XX.

Đọc câu thơ “Đường ta rộng thênh thang tám thước” trong bài thơ Ta đi tới của Tố Hữu cũng cần đặt trong hoàn cảnh lịch sử những năm 50 của thế kỷ XX khi kinh tế nước ta còn hạn hẹp, khi dân số mới chỉ có 23 triệu người (hiện tại đã là gần 101 triệu) thì đó là con đường rộng thênh thang cũng là điều dễ hiểu.

Như vậy, nếu chỉ hướng học sinh khai thác ngôn từ hiện diện và gói gọn trong tác phẩm thì không thể giúp học sinh hiểu sâu thông điệp được chuyển tải qua ngôn từ của tác giả. Đồng nghĩa với việc bài giảng đó kém tính lý luận.

hoc-sinh-03.jpg
Cần đổi mới việc dạy và học Ngữ văn trong các nhà trường.

Thế nào là một bài viết của học sinh mang tính lý luận?

Về phía học sinh, khi học trung học cơ sở, và khi mới bước vào đầu cấp trung học phổ thông thường các em chưa viết được bài văn mang tính lý luận. Vậy, thế nào là một bài viết của học sinh mang tính lý luận?

Bài viết văn của học sinh có giá trị không đơn giản chỉ là bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát, đủ ý chính mà còn phải biết liên hệ với các tác phẩm khác cùng chủ đề; đặc biệt, còn cần có tính lý luận, đó là phân tích nhân vật thì cần hiểu và làm nổi bật được nhân vật điển hình, phải hiểu nguyên mẫu và tính đại diện của nhân vật điển hình.

Ví như học về nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, nếu chỉ thấy nhân vật lập dị, nhân vật có hành động như kẻ say, kẻ điên thì chưa khai thác được giá trị vốn có của tác phẩm. Chí Phèo có nguyên mẫu ngoài đời, Chí Phèo hành động như kẻ điên nhưng ẩn sâu trong hình hài ấy là một tâm trạng phẫn uất đến cùng cực. Chí Phèo là nhân vật điển hình cho một bộ phận nông dân thời đó.

Nhà phê bình văn học Nga V.Bêlinxki viết: “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu nổi bật của tính mới mẻ trong sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói được rằng: Tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết”.

Vâng “Người lạ đã quen biết”, Chí Phèo là một điển hình, tính cách nhân vật này là tổng hợp nhiều nét tính cách của các nhân vật bị bần cùng hóa, bị tha hóa trong xã hội. Nói cách khác, nhà văn đã lựa chọn những nét tiêu biểu của một số nguyên mẫu ngoài đời để tổng hợp nên một nhân vật điển hình. Xã hội thời Chí Phèo sống có thể không có một nhân vật y hệt Chí Phèo, nhưng có nhiều người bất mãn mà say, có người vì say và bị cộng đồng xa lánh mà lấy rượu và tiếng chửi làm bạn đồng hành, có người sinh ra bị bỏ rơi đâu đó tựa cái lò gạch bỏ hoang; có người vò một lý do nào đó mà cô đơn ngay giữa cộng đồng .v.v…

Hoặc phân tích, bình giảng câu thơ, bài thơ phải chú ý trước hết là câu thơ, bài thơ đó, đồng thời cần phải biết rõ các đặc điểm mang tính lý luận như bố cục, nội dung, hình thức, đặt trong mối quan hệ không thể tách rời giữa các yếu tố nội dung, hình thức. Khái quát về giá trị tác phẩm cần đánh giá cả hai mặt hình thức và nội dung; tác phẩm đạt được các giá trị khi hướng tới chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ như thế nào…. Khi nói về từng yếu tố, lối diễn đạt phải tự nhiên, không gò câu ép chữ, không khiên cưỡng.

Muốn hiểu rõ câu thơ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/con thuyền xuôi mái nước song song” nhất định phải đặt câu thơ trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận, đặt trong bối cảnh sáng tác, hoàn cảnh lịch sử chi phối thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ trong phong trào Thơ mới. Hoặc câu thơ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” chỉ có thể được hiểu sâu sắc khi đặt nó trong cả bài thơ “Vội vàng” và trên cơ sở nắm bắt được phong cách thơ Xuân Diệu…

Thực trạng hiện nay

Thực tế hiện nay, học sinh trung học cơ sở và học sinh khi mới vào lớp 10 tại các trường trung học phổ thông thường làm văn rất thiếu tính lý luận hoặc không có tính lý luận.

Qua khảo sát dự giờ, chấm bài của học sinh, chúng tôi thấy rất rõ bài biết của học sinh chủ yếu bám vào câu, chữ trong tác phẩm văn học cụ thể, trong đề bài cụ thể, chưa biết đặt tác phẩm hoặc câu, đoạn trong chỉnh thể, chưa gắn được với lý luận văn học.

Ví như có đề bài về việc Quan điểm của em về nhận định “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” thì học sinh sẽ chỉ nói thật suy nghĩ của mình với vốn kiến thức bó hẹp về vui, buồn. Các em không biết ngữ cảnh nào xuất hiện câu thơ đó, câu thơ đó có giá trị trong bối cảnh nào hay trong mọi hoàn cảnh. Bởi vậy, bài viết thường ngắn gọn không đủ ý, không sâu sắc.

Hoặc một vấn đề nghị luận xã hội như “Quan niệm của anh/chị về thành công” học sinh không biết nêu khái niệm trước rồi mới bàn vấn đề nghị luận, và cũng chỉ biết nêu quan điểm cá nhân không có sự so sánh, mở rộng vấn đề cho bài viết có tính lý luận.

Thậm chí còn một bộ phận không nhỏ học sinh học thuộc bài giảng của thầy cô hoặc bài tham khảo sao chép trên mạng Internet để đưa nội dung vào bài viết của mình, không cần biết bài đó giáo viên yêu cầu thao tác lập luận nào là chính, không biết cần phân tích nhiều hay bình luận nhiều hơn cho một đề làm văn nghị luận cụ thể. Nhiều em do nguyên nhân không thích học văn hoặc không chọn môn Ngữ văn làm môn thi đại học… và nhiều em là do hổng kiến thức hoặc chưa biết phương pháp học tập môn Ngữ văn sao cho đạt hiệu quả.

Vai trò của lý luận văn học đối với việc dạy của thầy và việc học của trò là vô cùng cần thiết. Có tính lý luận thì bài giảng của thầy sâu sắc hơn, trường liên tưởng rộng rãi, mở ra cho học trò phạm vi tiếp cận kiến thức rộng rãi hơn. Bài viết của trò có tính lý luận thì tư duy được rèn luyện chắc chắn hơn, có chiều sâu hơn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện.

Chương trình giáo dục phổ thông mới cũng đặt ra mục tiêu rèn luyện 5 phẩm chất và 10 năng lực cốt lõi cho học sinh. Đó là các phẩm chất: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm và trong 10 năng lực, có 3 năng lực chung: Tự chủ và tự học; Kỹ năng giao tiếp và hợp tác nhóm với các thành viên khác; Giải quyết vấn đề theo nhiều cách khác nhau một cách sáng tạo và triệt để và có 7 năng lực đặc thù hay còn gọi là năng lực chuyên môn: Ngôn ngữ; Tính toán; Tin học; Thể chất; Thẩm mỹ; Công nghệ; Tìm hiểu tự nhiên và xã hội.

hojc-sinh.jpg

Vì thế, việc gia tăng tính lý luận cho bài giảng của thầy và bài viết của học trò, góp phần đáng kể cho việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới (2018).

Tôi luôn có niềm tin rằng nếu giáo viên dạy Ngữ văn làm cho học sinh yêu thích bộ môn của mình thì khó mấy học sinh cũng làm được. Để có được bài văn mang tính lý luận cho học sinh thì giáo viên cần ý thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc này để rèn luyện cho các em khi viết bài. Cần công phu yêu cầu luyện viết, chấm bài và chữa bài thật kỹ cho học sinh.

Các trường đại học cũng cần dạy bộ môn này kỹ lưỡng hơn, cho sinh viên thực hành nhiều hơn và giảng viên cần căn dặn sinh viên về vai trò của các em trong sứ mệnh “trồng người”. Bộ môn Ngữ văn sẽ trở nên giá trị hơn rất nhiều khi mỗi bài giảng của thầy cô và mỗi bài viết văn của học trò đều có tính lý luận.

Tài liệu tham khảo

1. Đỗ Đức Hiểu (2004): Từ điển văn học, NXB Thế giới.

2. Nguyễn Viết Chữ (2005): Phương pháp dạy tác phẩm văn chương theo loại thể. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018): Chương trình giáo dục phổ thông 2018, ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 22/12/2018.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ