Trong số bệnh nhân mắc tiểu đường, xuất hiện ngày càng nhiều người trẻ tuổi. Yếu tố tuổi tác không còn được đề cập như là một đặc quyền bất đắc dĩ của người bệnh. Ranh giới đó đang dần bị xóa nhòa…
Yếu tố nguy cơ gây bệnh
Các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ mắc bệnh tiểu đường của người trên 65 tuổi chiếm đến 16% dân số chung. Điều này đã khiến không ít người đang độ tuổi thành đạt lo lắng khi nghĩ đến những rủi ro bệnh tật của mình. Sau đây là những yếu tố nguy cơ đã được xác định:
Yếu tố gen: Khi bố hoặc mẹ mắc bệnh tiểu đường thì nguy cơ cho con là 30%. Nếu cả bố và mẹ đều mắc bệnh, thì nguy cơ cho con là 50%.
Yếu tố nhân chủng: Tỉ lệ và độ tuổi mắc bệnh tiểu đường thay đổi theo sắc tộc. Nguy cơ mắc bệnh của người da vàng thường cao hơn và độ tuổi cũng thường trẻ hơn người da trắng.
Tuổi: Càng lớn tuổi thì khả năng mắc bệnh tiểu đường càng cao. Có đến 1/2 số người mắc bệnh có độ tuổi trên 65. Tuổi là yếu tố nguy cơ không thể can thiệp được. Tuy nhiên điều đáng lưu ý là bệnh tiểu đường đang có khuynh hướng trẻ hóa.
Nhất là trong những gia đình có người mắc bệnh này. Nếu như thế hệ thứ nhất mắc bệnh ở độ tuổi 60 - 70, thì ở thế hệ tiếp theo mắc bệnh do yếu tố di truyền đã hạ độ tuổi xuống còn 40 - 50. Và hiện nay, những người bệnh ở độ tuổi dưới 20 không còn là chuyện hiếm.
Giới tính: Bệnh tiểu đường cũng có liên quan đến yếu tố giới tính. Ở Việt tỉ lệ nam/nữ mắc bệnh là 2/3. Tuy nhiên, yếu tố này lại chịu sự tác động của độ tuổi, điều kiện kinh tế và tình trạng béo phì.
Một số nơi trên thế giới như Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia, tỉ lệ mắc bệnh này ở nam và nữ là tương đương nhau. Riêng vùng Tây Âu và Bắc Mỹ thì nam mắc bệnh nhiều hơn nữ với tỉ lệ là 4/1.
Khu vực sinh sống: Các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ mắc bệnh tiểu đường ở khu vực thành thị cao hơn ở nông thôn từ 2 - 3 lần. Điều này được giải thích là do áp lực của sự đô thị hóa, đời sống đầy bận rộn và nhiều stress của đô thị tác động mạnh mẽ đến khả năng mắc bệnh đái tháo đường.
Sự thừa cân: Sự thừa cân được thể hiện qua tình trạng béo phì hoặc vòng bụng to quá cỡ. Có một câu nói đã trở thành ngạn ngữ: “Vòng bụng to ra, vòng đời ngắn lại”. Đối với quý ông vòng bụng được cho là nguy cơ khi > 90 cm, và quý bà là > 80 cm.
Các nhà nghiên cứu cho rằng sự thừa cân và vòng bụng to (do tích tụ mỡ tại khu vực này) là yếu tố nguy cơ hàng đầu dẫn đến mắc bệnh tiểu đường. Việc ăn uống điều độ và luyện tập thể dục thể thao giúp tránh tình trạng thừa cân và gia tăng chất lượng cuộc sống, hạn chế nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.
Hành vi và lối sống: Ít hoạt động thể lực, ăn uống quá nhiều gây thừa cân, chế độ ăn có nhiều chất béo bão hòa và nhiều carbonhydrate tinh chế, thiếu các vitamin (như C, E) và các yếu tố vi lượng (như Mg, Zn) cần thiết cho sự chuyển hóa của cơ thể. Tóm lại: Một chế độ ăn nhiều chất xơ, các loại ngũ cốc chưa tinh chế, nhiều rau xanh và trái cây sẽ hạ thấp tỉ lệ mắc bệnh.
Các yếu tố khác: Stress, ngồi “lì” ở các văn phòng, phương tiện di chuyển làm mất cơ hội vận động cơ bắp, các bữa ăn nhanh nhiều năng lượng (fast food).
Trong các yếu tố nguy cơ kể trên, thì hành vi, lối sống, stress, thừa cân là các yếu tố nguy cơ mà bản thân mỗi người đều có thể can thiệp được một cách tích cực nhằm đẩy lùi căn bệnh.
Các dấu hiệu nhận biết bệnh
Nhiều người rất ngại đến bệnh viện để làm các xét nghiệm, nên tự hỏi có cách nào để nhận biết bệnh tiểu đường mà không cần phải đi làm xét nghiệm hay không?
Trong giai đoạn sớm, bệnh tiểu đường chưa có biểu hiện gì để chúng ta nhận diện nó cả. Nhưng ở giai đoạn muộn, tức là lúc bệnh đã phát triển rầm rộ sẽ có 4 dấu hiệu mang tính “kinh điển” mà người ta thường nói đến. Đó là: Ăn nhiều - uống nhiều - tiểu nhiều - gầy nhanh.
Các biểu hiện này càng trẻ tuổi thì càng rõ. Bên cạnh các biểu hiện trên còn có các biểu hiện góp phần khẳng định khác như cơ thể thường xuyên mệt mỏi, năng suất học tập và lao động kém, tính tình thay đổi, dễ bị nổi cáu, mắt nhìn mờ.
Do lượng đường trong máu tăng cao, vượt quá ngưỡng lọc của thận, nên đường được thải ra ngoài cơ thể theo nước tiểu, nên nước tiểu có một “độ ngọt” nhất định. Khi nước tiểu được thải ra ngoài góc vườn hay trong nhà vệ sinh mà không được dội sạch, những con kiến bé nhỏ sẽ là các chuyên gia đầu tiên phát hiện ra người bệnh!
Tuy nhiên, xét nghiệm nước tiểu và nhất là xét nghiệm đường máu định kỳ sẽ giúp phát hiện sớm bệnh, kết quả xét nghiệm cũng là căn cứ để điều trị và đánh giá kết quả của quá trình điều trị.
Các biến chứng của bệnh
Có thể nói, bệnh tiểu đường là một trong những bệnh có nhiều biến chứng nhất. Bởi đây là bệnh có phạm vi tác động toàn thân và tiến triển lâu dài. Các biến chứng của bệnh đái tháo đường bao gồm: Biến chứng cấp tính và biến chứng mạn tính.
Biến chứng cấp tính của bệnh tiểu đường là tình trạng hạ đường huyết ở bệnh nhân dùng các thuốc hạ đường huyết, tiêu biểu là Insuline và Sulfonylureas. Hạ đường huyết hay gặp ở những người không cung cấp đủ năng lượng như bỏ bữa ăn, ăn trễ bữa, ăn uống thiếu thốn hay hoạt động thể lực nhiều.
Điều kiện thuận lợi cho hạ đường huyết xảy ra là các bệnh đi kèm như suy thận, suy gan, người nghiện rượu và lớn tuổi. Việc sử dụng các loại thuốc hạ đường huyết không được kiểm soát chặt chẽ cũng rất dễ gây ra hạ đường huyết.
Một biến chứng cấp tính khác của bệnh này là sự gia tăng áp lực thẩm thấu do lượng đường huyết tăng quá cao (>600mg/dL) làm cho người bệnh đi tiểu nhiều, gây mất nước và rối loạn điện giải. Đường huyết trong máu cao còn gây rối loạn chuyển hóa và dẫn đến tình trạng nhiễm toan Acetone khiến cho người bệnh lú lẫn, lơ mơ, hôn mê và có thể tử vong.
Các biến chứng mạn tính bao gồm: Biến chứng tim mạch như bệnh mạch vành, xơ vữa động mạch và tai biến mạch máu não; Biến chứng thần kinh gây tổn thương các sợi thần kinh và tùy theo sợi thần kinh nào tổn thương mà có các biểu hiện tương ứng;
Biến chứng thận làm thương tổn hệ thống mao mạch thận, gây ra sự giảm khả năng lọc của cầu thận và cuối cùng là suy thận; Biến chứng mắt qua các tổn thương vi mạch võng mạc, là nguyên nhân dẫn đến mù lòa; Biến chứng da cơ thường gặp loét bàn chân, các trường hợp nặng có thể dẫn đến cắt cụt bàn chân hoặc cắt cụt chi.
Để đề phòng các biến chứng trên tốt nhất là phát hiện sớm và điều trị sớm bệnh đái tháo đường qua việc khám sức khỏe và xét nghiệm đường máu định kỳ (6 tháng một lần), khống chế một cách có hiệu quả lượng đường máu ở người mắc bệnh đái tháo đường, điều trị có theo dõi, kiểm soát của chuyên môn.
Thực hiện chế độ ăn phù hợp với bệnh lý như giảm lượng đường và tinh bột, tăng lượng đạm, rèn luyện thể lực, chống nguy cơ béo phì, hạn chế bia rượu, thuốc lá. Người bệnh đái tháo đường cần đi khám ngay nếu có biểu hiện nghi ngờ liên quan đến các biến chứng kể trên.