Lối mòn mà không mòn
Thái Can làm thơ từ thuở còn đi học, ban đầu ký bút hiệu Th.C., thường in các báo Phong hoá, Tiểu thuyết thứ Bảy, Hà Nội báo, Văn học tạp chí, Công luận, sau tập hợp trong quyển Những nét đan thanh (Ngân Sơn tùng thư xuất bản, Huế, 1934); rồi ông bổ sung, tự mình viết tựa và tái bản (1938)…
Ông đã cùng Phạm Huy Thông, Lưu Trọng Lư lập Thi xã Dạ Lan Hương tại Hà Nội và được Linh Nhãn (Lê Văn Hòe) giới thiệu trên báo Công luận ở Sài Gòn (1938). Ngay từ đương thời phong trào Thơ mới, thơ Thái Can đã được nhiều bạn thơ và giới phê bình như Lê Văn Hòe, Thế Lữ, Trương Tửu, Mộc Khuê, Tài Xuyên, Hoài Thanh - Hoài Chân… cùng quan tâm trao đổi, luận bình...
Sau khi xuất bản Những nét đan thanh (1934) và được xếp loại những cây bút Thơ mới tiên phong, Thái Can vẫn tiếp tục sáng tác.
Từ rất sớm, ngay từ những bài phê bình đầu tiên, Hoài Thanh đã soát xét, thẳng thắn chỉ ra cả những hạn chế và khẳng định, nhấn mạnh cái hay của thơ Thái Can: “Vậy bây giờ Thơ mới đã có quy tắc gì chưa? Hiển nhiên là chưa có. Không theo phép tắc khuôn khổ xưa thì người ta gọi là mới, hai chữ Thơ mới hiện nay chỉ có thể định nghĩa một cách tiêu cực như vậy mà thôi; lối thơ sau này, câu thơ sẽ dài hay ngắn thế nào, điệu thơ sẽ thế nào, chưa ai biết được, song có điều chắc chắn, là thơ thì phải có vần.
Những bài Nguyễn Du, Nietzche của Thái Can trong quyển Những nét đan thanh, ý tứ dồi dào đều là những bài văn xuôi rất hay, nhưng không thể xem là thơ được, thơ phải có vần, phải chú trọng về âm điệu, phải mượn thêm âm điệu trao mối cảm cho người ta nhiều hơn là mượn ý tứ ly kỳ hay sâu sắc (…).
Những bài Học trò đi học đã về, Hoa ái tình của Thái Can; Túp lều cỏ, Nhớ lại ngày của Lưu Trọng Lư; bài Năm qua của Leiba, bài Than thở của nàng Mỹ thuật cùng nhiều bài khác của Thế Lữ đều là những bài thơ có giá trị” (Tiểu thuyết thứ Bảy, 1934).
Chỉ tính riêng trên báo Phong hóa trong năm 1935, Thái Can đã in thêm 6 bài (Hồn hoa, Chiều thu, Trông chồng, Phút yêu đương, Tình xuân, Im lặng)… Xếp hạng những cây bút chủ lực, “lão làng” giai đoạn đầu, Thái Can được nhà văn Khái Hưng hình tượng hóa thành nhân vật trong vở kịch vui một hồi bằng thơ nhại Quần tiên tụ hội (cùng các vai Nàng thơ, Huy Thông, Nguyễn Vỹ, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nhược Pháp), trong đó có đoạn:
“NÀNG THƠ (Đọc tiếp): - Nghe văng vẳng tiếng loa xa?/Đến lắm chữ loa, ca, xa, mà, và!
THÁI CAN (Ung dung bước tới): - Mỹ nhân kiều diễm của ta ơi,/Mắt biếc môi son tóc bỏ lơi,/Gót ngọc xin dừng bên tục tử,/ Mà nghe than thở một đôi lời./Huy Thông, Thế Lữ cả hai chàng,/Chữ nghĩa văn thơ đã rất xoàng./Điển tích lại thêm mờ mịt mịt,/Vì chưng chẳng đọc được thơ Đường.
… LƯU TRỌNG LƯ: - Hãy nghe bài mùa thu mù mịt…
THÁI CAN: - Lắng tai nghe thử một bài thơ” (Phong hóa, 1936)...
Tiếp ngay năm sau, Nguyễn Nhuệ Thủy tuyển bài thơ Chiều thu của Thái Can vào đầu tập Những áng thơ hay (gồm 17 bài của 17 nhà thơ. Nam Ký Xb, 1936). Nhận được sách, tạp chí Sông Hương giới thiệu: “Những áng thơ hay của ông Nguyễn Nhuệ Thủy biên tập, có ông Lê Tràng Kiều đề tựa, gồm nhiều bài thơ của các thi sĩ đương thời như Thái Can, Phạm Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... cũng có cả ông Nguyễn Khắc Hiếu nữa.
Liền tháng sau, bình giả Lê Văn Hòe trong mạch cảm hứng “Những áng thơ hay không xứng đáng với tên gọi” thiên về phê phán đã trực diện góp ý, bắt bẻ: “Bài Chiều thu của Thái Can làm theo thể cũ (thất ngôn trường thiên), lời đã sáo và tục, như những câu: Ta ngỡ Hằng Nga náu Quảng Hàn (bắt chươc Hồ Xuân Hương)/ Ta đứng bên hiên kiếm ý thơ (phỏng theo Thế Lữ)/Mỹ nhân vô ý bước đi qua... Cõi lòng man mác giá như sương/ (mà ý cũng sáo và tục nốt)/… Ta về nhặt lấy hoa thu rụng,/Đặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương… Không thể kêu là một áng thơ hay được, dầu không đến đỗi dở lắm” (Công luận, 1936).
Dùng thủ pháp vượt lên thi đàn
Thi sĩ Thái Can. |
Bên cạnh áng thơ “không đến đỗi dở lắm”, Thái Can đã có những bài thơ, câu thơ vượt trội trên thi đàn. Chẳng thế mà Thế Lữ khi tuyển lựa, nhặt sạn thơ ca đã bình luận, liên hệ, nhắc nhớ đến nét riêng độc đáo thơ Thái Can: “Tôi lại nhớ đến câu thơ của Thái Can ngày nào cũng tả một tình cảnh như thế, mà từ lối dùng chữ đến âm điệu cùng có một sức chiêu gợi lạ lùng: Thơ tả người Chinh phu cưỡi ngựa trong cảnh sương giá, râu mày tuyết bám, cánh áo bay phấp phới, và tiếng: Ngựa hý vang từng trận gió may. Câu thơ đẹp hoàn toàn” (Công luận, Sài Gòn, 1936).
Thế rồi Thái Can cộng tác với báo chí phương Nam, thử nghiệm lối thơ vui, “thả lá thơ chơi”, thơ hình thức vị nghệ thuật kể từ cách viết nhan đề đến việc thêm những hàng dấu chấm: Đàn bướm bay cao liệng xuống gần,/……/ Tưng bừng bay lượn dưới hoa xuân./……./ Rõ ràng hoa cũng như sung sướng,/ Dưới ánh triêu dương mỉm miệng cười (Công luận, 1937).
Tiếp qua năm sau, trong bài viết chào xuân có tính tổng hợp, nhà phê bình Trần Thanh Địch bình điểm thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Thanh Tịnh, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, từ đó dẫn toàn văn và phân tích vẻ đặc sắc bài Vườn xuân của Thái Can: “Thái Can, nhà thi sĩ của Hoa và Trăng, cảm xuân một cách khác (…).
Thấy xuân về, Thái Can thành thực sung sướng. Cũng như Nhược Pháp, Thái Can không “nhìn” xuân bằng một tâm hồn uổi nuột, không cảm xuân thành những bài thơ buồn rầu. Thấy xuân đến, Thái Can không dùng nổi lòng chán nản mà chỉ lấy những bông hoa tình ái đầu mùa để rung động người đọc.
Thái Can không ca ngợi sự đau đớn ê chề của tâm hồn. Cái đặc sắc của Vườn xuân vì thế mà càng thêm giá trị. Trong thơ của Thái Can, ta thấy đầy rẫy những nét “Tàu”, không như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử hay Chế Lan Viên thường hay dùng những ý rộng rãi của nền văn học Tây phương. Trong gần tất cả các bài thơ, Thái Can thường thích ca tụng đến hai thứ “Trăng” và “Hoa”.
Và, nhà thi sĩ ấy yêu thứ “hoa hạnh”: Truyện cùng hoa Hạnh dưới cành sương (Phút yêu đương); Gặp em thơ thẩn bên vườn Hạnh,/… Bên vườn hoa Hạnh bóng trăng soi… Và luôn cả trong bài Vườn xuân, nhà thi sĩ ấy cũng viết: Âu yếm em hôn hoa hữu hạnh, v.v… Thơ Thái Can có một vẻ mơ màng và huyền diệu, làm người đọc yêu mến nó như yêu mến một cảnh trăng non bao trùm cả bầu sương đang tỏa” (Tràng An báo, 1936)…
Ký giả Vương Tử khi xác định các bước tiến bộ, vận động, phát triển tư duy thơ ca và xu thế chuyển đổi, thay thế, tiếp nối thế hệ đi trước đã điểm danh và ghi nhận vị thế Thái Can: “Người ta chưa biết rằng Huy Thông hay Thao Thao, Thái A hay Phi Yến, Nhược Pháp hay Thái Can, Trọng Lư hay Huy Nhiệm, Liêu Kỳ Lộc hay J. Leiba, hay ai ai khác sẽ chiếm cái chỗ ngồi của Thế Lữ, nhưng người ta chắc chắn rằng Thế Lữ sẽ không giữ được chỗ ngồi lâu được hơn hai nhà thơ họ Nguyễn, họ Trần” (Công luận, 1938)...
Thế rồi Thái Can tham gia Thi xã Dạ Lan Hương và được Linh Nhãn (Lê Văn Hòe) trân trọng giới thiệu với làng thơ phương Nam: “Là tên một Thi xã mới thành lập ở Bắc Hà, do những nhà thi sĩ đã nổi tiếng gây dựng nên như Huy Thông, tác giả của nhiều tập thơ có giá trị: Yêu đương, Tiếng địch Sông Ô, Anh Nga và Tần Ngọc.
Thái Can, tác giả Những nét đan thanh và Lưu Trọng Lư, một nhà thơ văn mà chúng tôi không cần giới thiệu với độc giả...”. Nối tiếp đoạn văn giới thiệu là “Lời phi lộ” thể hiện quan điểm, tôn chỉ của thi xã ký tên chung Phạm Huy Thông - Thái Can - Lưu Trọng Lư và được Linh Nhãn xác nhận: “Lời lẽ ấy là sự giãi bày đủ cả một chương trình hành động của Dạ Lan Hương Thi xã”…
Và rồi Thái Can viết bài thơ Bốn giấc mộng chia năm đoạn với thi tứ đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi: Đời anh chỉ em biết,/ Có nhiều nỗi đắng cay./ Nhưng em không thể ở,/ Cùng anh trong một ngày./ Vì em là Ngọc Nữ,/ Ở trên động Thiên Thai (Công luận, 1938).
Khắc hình tượng vào thơ
Khi phong trào Thơ mới cơ bản đã vượt đỉnh, bình giả Trương Tửu khi thực hiện sơ kết chặng đường mười năm văn học đã điểm duyệt, phân loại các trường thơ và vinh danh vị thế Thái Can: “Tựu trung, vẫn chỉ có bốn trường thơ mới có tính cách đặc biệt là: Trường thơ Thế Lữ; Trường thơ Lưu Trọng Lư; Trường thơ Nguyễn Vỹ; Trường thơ “thể cũ ý mới” có Thái Can đại diện…
Thơ Thế Lữ là thể ca trù phục hưng lại, thơ Lưu Trọng Lư có cái vẻ phóng túng của các thể cổ phong, từ khúc; thơ Nguyễn Vỹ phỏng theo thể cách Pháp văn. Thơ Thái Can theo cái ý kiến dung hòa của André Chénier. Thơ Thế Lữ chú trọng về âm, thơ Lưu Trọng Lư chú trọng về điệu, thơ Nguyễn Vỹ chú trọng về tứ, thơ Thái Can chú trọng về hình tượng” (Mùa gặt mới, 1940).
Đến đầu năm 1942, Tài Xuyên trong bài Mùa xuân với thi nhân đã điểm danh và phân tích cảm quan mùa xuân trong thơ Xuân Diệu đặt trong tương quan thơ xuân Thái Can: “Xuân Diệu với Thái Can là hai nhà thơ nhiều cảm tình với xuân nhất. Thái Can, một chàng thơ đa tình, yêu xuân, say xuân, vì xuân tức là tình.
Vào vườn xuân cùng ai tay cầm tay đi tìm sắc đẹp: Rảo bước ngày xuân anh với em,/ Trong vườn tư tưởng để em tìm./ Hương thơm sắc đẹp hoa tình ái,/ Em rắc bên lòng dưới áo xiêm” (Tràng An báo, Huế, 1940).
Đến chặng cuối, Hoài Thanh - Hoài Chân trong tổng luận Một thời đại trong thi ca mở đầu bộ sách đại thành Thi nhân Việt Nam (1942) xác nhận những thử nghiệm ban đầu của Thái Can: “Từ khúc mà hồi đầu người ta toan đưa làm thể chính thức của thơ mới đã chết dần cùng với thơ tự do” và kèm theo chú thích: “Thơ tự do có khi không vần như thơ Thái Can trong Những nét đan thanh, thường thì có vần. Nhưng dầu có vần nó vẫn khác từ khúc. Nó không bao giờ độc vận. Ba câu cùng một vần đi liền với nhau cũng không mấy khi. Trong một bài từ khúc liên vận thường có vần chị vần em như một bản nhạc có âm chính, âm phụ”...
Trong phần bình luận thơ Thái Can, Hoài Thanh - Hoài Chân phác thảo theo kiểu phản đề, mở đầu chê khéo lối thơ xưa, hình ảnh chân thực nhưng sáo cũ và đến nửa sau mới tập trung chỉ ra nét mới của những bài Thơ mới Thái Can, cái hay của những bài thơ hay và một phong cách riêng, độc đáo, sâu lắng: “Thơ Thái Can nhạc điệu không có nhiều lối và cũng chỉ nằm trong khuôn khổ thơ thất ngôn, nhưng trong những câu hay, bao giờ cũng thấm thía (…).
Cho đến những bức tranh thỉnh thoảng ta gặp trong thơ Thái Can cũng không phải là những bức tranh tô bằng nét, bằng màu, mà chính là họa bằng nhạc điệu (...). Những lúc thi nhân tìm được âm điệu thích hợp để diễn đạt nỗi lòng mình, ta thấy người khoan khoái như được giải thoát.
Nếu không, người ra chiều uất ức, khó chịu. Người phân vân trước những ham muốn, những mộng tưởng nhiều khi trái ngược nhau. Tâm hồn Thái Can rất phức tạp. Tuy vẫn thường mơ tưởng cái cảnh thanh gươm yên ngựa, song nhác thấy bóng khăn san áo màu thời nay, người cũng không muốn hững hờ qua.
Người thực lòng thương những gái giang hồ, người thống trách xã hội đã dẫn họ vào đường trụy lạc, song những yến diên có ca nhi điểm vui, tất cả cái hào hoa, cái êm dịu của cuộc đời phú quý người cũng không nỡ từ. Người muốn gây một sự nghiệp, người không muốn sống vô ích, song người lại thấy làm gì cũng vô ích, người ghét hữu hạn và khao khát vô cùng” (Thi nhân Việt Nam, 1942).
Ở đây hai ông tuyển thơ Thái Can năm bài (Cảnh đó, người đâu? Chiều thu, Trông chồng, Anh biết em đi, Cảnh đoạn trường), ngang bằng số bài Nguyễn Đình Thư, vượt trên những Tế Hanh, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, J. Leiba, Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương (bốn bài)…
Về sau này, bài thơ Anh biết em đi đã được nhạc sĩ Anh Bằng (1926-2015) phổ nhạc thành bài hát Anh biết em đi chẳng trở về (1982), xếp loại những “tình khúc bất tử” và được các ca sĩ bolero hàng đầu thể hiện: Duy Quang, Sơn Tuyền, Hương Lan, Phi Nhung, Huỳnh Thật, Trung Quang, Tuấn Vũ...