Khi bóng tối không chỉ là sự khiếm thị mà là rào cản tri thức
Tốt nghiệp Master of teaching (Thạc sĩ phương pháp giảng dạy) chuyên ngành Science (Khoa học tự nhiên) theo chương trình học bổng toàn phần trường Đại học Newcastle, Úc, cô Lê Thị Hồng Nhung về công tác tại tổ Hóa học, trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn, TPHCM.
Cô Nhung chia sẻ: “Cách đây 15 năm, tôi được tham gia dạy học tình nguyện cho các bạn khiếm thị ở mái ấm Bừng Sáng. Tại đây, tôi có duyên được tham dự chương trình ca nhạc gây quỹ đặc biệt do chính các bạn khiếm thị trong mái ấm tổ chức.
Khi chương trình sắp bắt đầu, điện nguyên tòa nhà đột ngột tắt, người tham gia lo lắng cho chương trình, vì không biết sự cố gì đang xảy ra.
Khoảng 1 phút sau, một ánh đèn nhỏ xuất hiện trên sân khấu, chị MC theo sau đó bước ra và nói một câu khắc vào tâm tôi đến ngày hôm nay: "Các bạn ơi, các bạn chỉ mới mất ánh sáng có 1 phút thôi, còn chúng tôi những người khiếm thị cả một đời chưa một lần nhìn thấy ánh sáng, chúng tôi sẽ sống thế nào?
Chúng tôi vẫn sống tốt các bạn ạ, vẫn yêu đời và nhìn đời theo màu trong sáng nhất".
Chị MC sinh ra bẩm sinh không có mí mắt nhưng với nỗ lực mạnh mẽ, khi đứng trên sân khấu này chị đã cầm trên tay tấm bằng Cử nhân từ Đại học khoa học xã hội nhân văn.
Từ đó đến nay, tôi luôn tâm nguyện rằng phải sống thật ý nghĩa và phải làm được điều gì đó để hỗ trợ cho cộng đồng học sinh khuyết tật nhìn tại Việt Nam.
Năm 2018, cô Hồng Nhung sáng lập dự án TAVIS (Touch And Voice Inner Self) - dự án chuyên nghiên cứu và phát triển các sản phẩm hỗ trợ trẻ khuyết tật nhìn toàn cầu, với tầm nhìn và sứ mệnh không để bất kỳ đứa trẻ khiếm thị nào bị bỏ lại phía sau trong nền giáo dục toàn cầu bất kể quốc gia, ngôn ngữ, sắc tộc hay tôn giáo. Các em cần được bình đẳng trong giáo dục với những hỗ trợ đặc thù.
Năm 2024, cô Hồng Nhung đến Hoa Kỳ trong chương trình Fulbright TEA (Chương trình học bổng toàn phần cho giáo viên toàn cầu của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ) với mong muốn học hỏi về giáo dục hòa nhập để phát triển cho cộng đồng trẻ khiếm thị tại Việt Nam.
Tuy nhiên, điều khiến cô bất ngờ là tại đây – một đất nước có giáo dục tiên tiến bậc nhất nhưng những rào cản về giáo cụ học tập với trẻ khuyết tật nhìn vẫn còn hiện diện.
Những khó khăn đó không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở cả 20 nước bạn cùng tham gia trong chương trình. Đó là một nỗi đau toàn cầu!
Từ một sản phẩm có bằng sáng chế, dự án TAVIS được cô Nhung mang sang Hoa Kỳ, nhận được sự đồng hành từ các giáo sư, giám đốc trung tâm Học tập phục vụ cộng đồng (Service Learning), Vụ Văn Hóa và Giáo dục - Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và 8 ứng viên đến từ 4 Châu lục đã tình nguyện trở thành điều phối viên đưa dự án về các nước.
Dự án TAVIS được nhân rộng ra 6 quốc gia – một niềm tự hào mang trí tuệ Việt vươn tầm quốc tế.
Từ năm 2018 đến nay, TAVIS đã phát triển 6 dòng sản phẩm trọng tâm, đạt các giải thưởng cấp tỉnh, quốc gia, trở thành một trong những sáng kiến giáo dục cho trẻ khuyết tật nhìn của Việt Nam có tác động quốc tế.
TAVIS viết tiếp câu chuyện nhân văn với thế giới
Dự án TAVIS (Touch And Voice Inner Self) đã tác động trực tiếp hơn 1000 lượt học sinh khuyết tật, có thể tiếp cận học liệu và ấn phẩm hỗ trợ đặc thù.
Trên 5 cơ sở giáo dục, mái ấm, trung tâm bảo trợ trên cả nước được triển khai thường xuyên.
Đồng thời hướng dẫn đề tài nhiều nhóm học sinh nghiên cứu khoa học đạt giải cấp Tỉnh và cấp Quốc gia.
Đặc biệt, TAVIS đã mang lại niềm tin cho trẻ rằng, STEM không còn là vùng cấm, từ đó nâng cao cơ hội tự lập, tự phục vụ, phẩm giá cá nhân. Đồng thời, truyền cảm hứng cho nhiều giáo viên tin rằng mọi đổi mới dù nhỏ đều có thể cứu một cuộc đời.
Nhìn lại hành trình từ 2018 đến nay, TAVIS không chỉ là một dự án. Đó là lời khẳng định giáo dục Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra sản phẩm đổi mới sáng tạo mang tầm quốc tế, chạm đến những cộng đồng khó khăn nhất.
TAVIS đã chứng minh rằng những đôi mắt không thấy ánh sáng vẫn có thể nhìn thấy tri thức, khi có những người thầy mang ánh sáng đến cho các em.
Trong bối cảnh giáo dục hòa nhập nói chung và giáo dục trẻ khuyết tật nhìn nói riêng được Bộ GD&ĐT đặc biệt quan tâm, TAVIS là minh chứng mạnh mẽ cho một sáng kiến từ trái tim có thể lan tỏa đến 4 châu lục, góp phần vào nỗ lực toàn cầu nhằm thu hẹp bất bình đẳng trong giáo dục.