Hỗ trợ điều trị bệnh
Đề tài nghiên cứu về sàng lọc dược liệu Việt Nam kháng đái tháo đường do TS Nguyễn Minh Nam - Trưởng Bộ môn Kỹ thuật Y sinh, Khoa Y, Trường Đại học Khoa học Sức khỏe (Đại học Quốc gia TPHCM) làm chủ trì. Tham gia thực hiện còn có ThS Nguyễn Thị Quỳnh Mai - nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Kim Nhường, các sinh viên Trần Thị Khánh Linh, Vũ Hoàng Quỳnh Anh, cùng học viên cao học Nguyễn Thành Công (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TPHCM).
Theo ADA Standards of Care 2025 (tài liệu hướng dẫn chính thức hằng năm của Hiệp hội Đái tháo đường Mỹ), điều trị đái tháo đường type 2 bao gồm nhiều phương pháp kết hợp: Thay đổi lối sống, sử dụng metformin như thuốc đầu tay nếu ăn uống và tập luyện không đủ hiệu quả, và có thể cân nhắc thêm các nhóm thuốc khác nếu cần. Một phương pháp khác là phẫu thuật chuyển hóa, áp dụng cho người béo phì nặng nhằm thúc đẩy khả năng thuyên giảm bệnh lý.
TS Nguyễn Minh Nam cho biết, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm. Cụ thể, thay đổi lối sống có ưu điểm không gây tác dụng phụ nhưng đòi hỏi người bệnh kiên trì, hiệu quả cải thiện chậm và khó duy trì lâu dài. Dùng thuốc cho hiệu quả nhanh hơn nhưng có thể gây tác dụng phụ. Phẫu thuật có thể giúp thuyên giảm lâu dài, song là phương pháp xâm lấn, chi phí cao và có nguy cơ biến chứng.
Để khắc phục những hạn chế này, nhóm nghiên cứu đã tập trung sàng lọc các dược liệu Việt Nam có chứa hợp chất điều biến chọn lọc thụ thể PPAR-γ (yếu tố điều trị bệnh đái tháo đường type 2), nhằm tăng nhạy cảm insulin và giảm đường huyết, đồng thời hạn chế tác dụng phụ. Theo TS Nam, nhiều dược liệu truyền thống có độ an toàn cao hơn, ít gây tác dụng phụ so với thuốc tổng hợp. Ưu điểm khác là chi phí thấp, dễ tiếp cận, phù hợp với mức sống của người dân.
Từ cơ sở đó, nhóm xây dựng quy trình sàng lọc dược liệu thuần Việt dựa trên cơ sở dữ liệu hợp chất tự nhiên (LOTUS), nhằm thu thập thông tin về cấu trúc hóa học và nguồn gốc dược liệu. Sau khi phân tích và mô phỏng bằng phần mềm chuyên dụng, nhóm đã xác định được những hợp chất có tiềm năng điều trị đái tháo đường type 2.
TS Nam cho biết, nghiên cứu không bắt đầu bằng nhóm dược liệu cụ thể, mà sử dụng phương pháp sàng lọc dựa trên hợp chất. Cụ thể, nhóm tìm các dược liệu phân bố tại Việt Nam chứa những hợp chất có ái lực cao với thụ thể PPAR-γ, ưu tiên các hợp chất chưa có nghiên cứu khoa học công bố về khả năng điều trị đái tháo đường type 2. “Điều này cho thấy nhóm muốn tìm ra những ứng viên thực sự mới mẻ và chưa được khai thác”, TS Nam nhấn mạnh.

Cần nhiều nguồn lực
Từ 570 hợp chất tự nhiên có tính chất giống thuốc, nhóm đã sàng lọc ra 17 hợp chất có kết quả mô phỏng cho thấy khả năng gắn kết tốt với PPAR-γ. Các hợp chất này có thể điều biến hoặc ức chế chọn lọc thụ thể PPAR-γ – cơ chế có thể giúp khắc phục tác dụng phụ của nhóm thuốc thiazolidinedione (TZD) hiện hành mà vẫn giữ được khả năng tăng nhạy cảm insulin. Truy xuất dược liệu chứa các hợp chất này cho thấy có 13 loại dược liệu đang phân bố tại Việt Nam.
TS Nam cho rằng, kết quả nghiên cứu mở ra hướng phát triển thuốc điều trị mới từ dược liệu tự nhiên, an toàn và hiệu quả, đồng thời tối ưu hóa việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên dược liệu trong nước. “Nghiên cứu của nhóm hướng đến các giải pháp điều trị an toàn hơn thông qua cơ chế chọn lọc dược liệu thuần Việt, giúp nâng cao hiệu quả và tiết kiệm chi phí trong nghiên cứu phát triển thuốc điều trị bệnh”, ông nói.
Để đạt được kết quả này, nhóm nghiên cứu phải sàng lọc một lượng lớn dữ liệu hợp chất, truy ngược lại các dược liệu tương ứng - quá trình đòi hỏi nhiều thời gian, sự tỉ mỉ trong phân tích, tổng hợp thông tin để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ. Đặc biệt, việc định danh chính xác loài dược liệu là yếu tố sống còn, bởi nếu xác định sai loài hoặc bộ phận của cây thuốc có thể làm mất đi giá trị nghiên cứu và dẫn đến kết quả sai lệch. Ngoài ra, một số dược liệu chỉ phân bố ở vùng núi cao hoặc khu vực khó tiếp cận, khiến việc thu thập trở nên tốn kém, mất thời gian và đòi hỏi logistics phức tạp.
Tuy nhiên, để phát triển thành thuốc điều trị, nhóm nghiên cứu nhận định còn cần nhiều năm nữa để thực hiện các bước tiền lâm sàng, thử nghiệm lâm sàng, đăng ký lưu hành và sản xuất thương mại hóa. Theo TS Nam, đây là giai đoạn đòi hỏi nguồn tài chính lớn, trong đó chi phí thử nghiệm lâm sàng chiếm phần đầu tư lớn nhất và kéo dài nhiều năm.
Việc phát triển thuốc từ dược liệu đòi hỏi đội ngũ chuyên gia liên ngành có trình độ cao và kinh nghiệm thực tiễn, từ thực vật học, hóa học, hóa dược, dược lý, sinh học phân tử, công nghệ sinh học, y học lâm sàng đến dược học cổ truyền… Bên cạnh đó là hệ thống cơ sở vật chất hiện đại phục vụ nghiên cứu, thử nghiệm và sản xuất.
Theo nhóm nghiên cứu, các công trình khoa học liên quan đến phát triển thuốc cần có sự hợp tác giữa viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện và doanh nghiệp dược trong và ngoài nước nhằm chia sẻ kiến thức, công nghệ, tài chính và tiếp cận thị trường. Ngoài ra, cần có khung pháp lý rõ ràng, minh bạch về nghiên cứu, thử nghiệm, đăng ký và quản lý thuốc từ dược liệu. Việt Nam đã có quy định riêng cho thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu…, tuy nhiên cần hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế.