Ngay trong phiên họp đầu tiên ngày 3/9/1945, đề xuất chống “giặc dốt”, “mở chiến dịch chống nạn mù chữ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Chính phủ thảo luận, thống nhất như một nhiệm vụ cấp bách
Rất nhanh sau đó, hàng loạt sắc lệnh về giáo dục được ký ban hành: Sắc lệnh 17-SL “đặt ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam”; Sắc lệnh 19-SL nêu rõ “thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân học buổi tối”; Sắc lệnh 20-SL yêu cầu “trong khi chờ đợi lập được nền tiểu học cưỡng bức, việc học chữ Quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người”.
Được triển khai như một chiến dịch, phong trào Bình dân học vụ nhanh chóng lan rộng khắp cả nước, làm nên kỳ tích và trở thành một trong những trang sử vàng son của nền giáo dục cách mạng. Chỉ sau 5 năm, từ 95% dân số mù chữ, Việt Nam đã có gần 12,2 triệu người biết chữ; 10 tỉnh với 80 huyện, hơn 1.400 xã và 7.200 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ…
Ngày nay, đất nước bước vào kỷ nguyên số với những vận hội, thách thức mới. Dòng chảy toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đặt chúng ta trước nỗi lo mới - sự tụt hậu về tri thức và kỹ năng số.
Cuối năm 2024, trong buổi gặp mặt đại diện nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, trên cơ sở phong trào Bình dân học vụ với thành tích thần tốc xóa nạn mù chữ, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu sớm phát động thực hiện phong trào Bình dân học vụ số; tạo nền tảng để cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển mới, xây dựng quốc gia số, kinh tế số, xã hội số, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Chỉ 4 tháng sau đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính chính thức phát động trên toàn quốc Phong trào Bình dân học vụ số với tinh thần “toàn dân, toàn diện, bao trùm, sâu rộng, không ai bị bỏ lại phía sau”.
Được truyền cảm hứng, kế thừa, phát huy bài học lịch sử từ phong trào Bình dân học vụ, Phong trào Bình dân học vụ số phấn đấu xây dựng một xã hội không chỉ giàu tri thức, mà còn giàu sức mạnh công nghệ, sẵn sàng hội nhập, phát triển. Tinh thần “bình dân học vụ” trở lại dưới một hình thức mới: Học tập không giới hạn qua nền tảng số. Tuy nhiên, ý nghĩa của phong trào không chỉ dừng ở trang bị công cụ, kỹ năng, mà còn khơi dậy tinh thần học tập suốt đời, tinh thần tự lực tự cường vốn đã làm nên sức mạnh của dân tộc.
Cho đến nay, trên nền tảng công nghệ Bình dân học vụ số, số lượng lớn người dân, học sinh, sinh viên đã và đang được tiếp cận các chương trình phổ cập kỹ năng số. Riêng ngành Giáo dục, với vai trò mũi nhọn trong phổ cập tri thức số, khung năng lực số cho người học đã được Bộ GD&ĐT ban hành. Bộ GD&ĐT cũng đã có kế hoạch cụ thể, xác định 10 nhiệm vụ trọng tâm nhằm triển khai Bình dân học vụ số...
Tất nhiên, hành trình đạt mục tiêu “xóa vùng trắng kỹ năng số” không dễ dàng. Thách thức đến từ khó khăn hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt vùng sâu, vùng xa còn yếu kém; nhiều người ít có cơ hội tiếp cận, sử dụng công nghệ số do hạn chế về thiết bị, kiến thức nền tảng; hạn chế về nguồn lực triển khai, cả về kinh phí, trang thiết bị, con người; rào cản nhận thức…
Bởi vậy, rất nhiều việc cần tiếp tục, từ hành lang pháp lý, chính sách, đến điều kiện triển khai. Trong đó có hạ tầng viễn thông, công nghệ, tạo điều kiện để mọi người dân có thể tiếp cận công nghệ số và thụ hưởng giáo dục miễn phí trên không gian mạng; xây dựng nội dung, tài liệu học tập…
Quan trọng nhất vẫn là sự vào cuộc quyết liệt, hiệu quả của cả hệ thống chính trị, mọi người dân, sự thay đổi nhận thức để cùng đồng lòng thực hiện một cuộc “khai dân trí” mới - nơi việc học tập, rèn luyện kỹ năng, tri thức số trở thành nhu cầu thiết thân của mỗi người.