Phát triển kinh tế biển
Việt Nam có đường bờ biển trải dài từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Kiên Giang, khoảng 3.260km. Các huyện ven biển chiếm 17% tổng diện tích cả nước và là nơi sinh sống của hơn 1/5 dân số toàn quốc. Biển không chỉ đem lại vị trí chiến lược mà còn là tiềm năng phát triển kinh tế dồi dào như du lịch, khoáng sản.
Chính vì vậy, Nghị quyết số 36/NQ-TW đã chỉ rõ mục tiêu phát triển biển của nước ta là đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển. Hình thành văn hóa sinh thái biển. Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đồng thời, ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực. Phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.
Về kinh tế biển, các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước. Kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế. Kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển. Theo đó, chỉ số phát triển con người (HDI) của các tỉnh, thành phố ven biển cao hơn mức trung bình của cả nước, thu nhập bình quân đầu người gấp từ 1,2 lần trở lên. Các đảo có người dân sinh sống, hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục.
Đối với khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển phải tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến và thuộc nhóm nước dẫn đầu trong ASEAN, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ biển đạt trình độ tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ biển có năng lực, trình độ cao.
Chú trọng bảo vệ môi trường biển
Ông Trần Quý Kiên, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho biết: Nghị quyết số 36-NQ/TW đưa ra một chiến lược tổng thể, toàn diện, là nền tảng cho việc phát triển kinh tế biển, quản lý biển, hải đảo của nước ta trong các giai đoạn tiếp theo với những khâu đột phá hết sức quan trọng và các nhiệm vụ, giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cụ thể để đạt được các mục tiêu đề ra.
Tuy nhiên, cùng với việc phát triển kinh tế biển bền vững, Nghị quyết 36 cũng nhấn mạnh công tác bảo vệ môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Theo đó, cần đánh giá tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng. Tối thiểu 50% diện tích vùng biển Việt Nam được điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỉ lệ bản đồ 1: 500.000 và điều tra tỉ lệ lớn ở một số vùng trọng điểm. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hoá về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật.
Ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương. Ở các tỉnh, thành phố ven biển, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường. 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường.
Đồng thời, quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo. Tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia. Phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.
Nghị quyết số 36-NQ/TW cũng yêu cầu, năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bao gồm cả thông qua việc ứng dụng công nghệ vũ trụ và trí tuệ nhân tạo, đạt trình độ ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực. Việt Nam cần có biện pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển.
GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh, nguyên Viện trưởng Viện Sinh thái và Môi trường (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cho rằng: “Biển đảo là một hệ sinh thái quan trọng ở đất nước chúng ta. Chính vì thế, ngày nay phát triển kinh tế biển và ngoại giao là cực kì quan trọng. Đặc biệt, Việt Nam nằm trong vùng Biển Đông, có giao lưu quốc tế rộng lớn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có chính sách, chiến lược về kinh tế biển Việt Nam. Mục đích đề ra là giữ tài nguyên biển - tiềm năng kinh tế rất lớn, cũng là bảo vệ chủ quyền của đất nước chúng ta”.
Trong Nghị quyết số 36-NQ/TW, tầm nhìn chiến lược đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn. Kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN, tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.