Thế nhưng, vị Tiến sĩ phụng mệnh là Trịnh Ngô Dụng đã làm trái ý, cứu làng Chèo khỏi họa diệt vong.
Họ Ngô gốc Bùi
Trịnh Ngô Dụng (tên gốc là Ngô Dụng) sinh năm 1684, người xã Vân Trùy, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc (nay là thôn Vân Xuyên, xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang). Theo gia phả họ Ngô tại Vân Xuyên, “tổ tiên nhà ta vốn dòng dõi hào trưởng, người họ Bùi ở lộ Sơn Nam, huyện Thiên Thi”. Như vậy, dòng họ của Ngô Dụng vốn gốc họ Bùi ở Ân Thi (Hưng Yên).
Tương truyền, thời xưa có một gia đình họ Ngô sinh sống ở chân núi IA, xã Thù Sơn (Hiệp Hòa, Bắc Giang) hiền lành phúc hậu, song mãi không sinh được con, đành bàn nhau đi xin con nuôi.
Thế là cụ ông đã lên đường tìm đến các gia đình gia giáo, có đông con trai để xin một người về nối dõi tông đường. Khi tới Ân Thi, cụ đã vào một gia đình họ Bùi có 5 con trai. Sau khi biết ý của khách quý, chủ nhà đồng ý cho con út mình làm con nuôi họ Ngô và sẽ mang họ Ngô.
Được người họ Ngô đón về chăm nuôi và học hành chu đáo, cậu út đã nổi trội hơn người. Dân làng bao người ao ước có được người con như vậy, nhưng cũng không ít người ghen ghét đố kỵ.
Đêm đêm cậu út học, giọng đọc bài đã làm ồn ào hàng xóm. Những người ghen ghét kiếm cớ gây sự, ném sỏi đá vào sân nhà. Cực chẳng đã, cụ họ Ngô đành chuyển chỗ ở từ chân núi IA lên làng Ân Cập, xã Hoàng Vân.
Sau này các thế hệ kế tiếp của họ Ngô gốc họ Bùi sinh sôi rất đông và sống chủ yếu ở làng Vân Xuyên, xã Hoàng Vân. Hàng năm, ngày 15 tháng Chạp, con cháu họ Ngô gốc Bùi tụ họp về nhà thờ tổ ở Vân Xuyên để giỗ tổ, chính là giỗ cụ dưỡng tổ họ Ngô có công nuôi dưỡng cụ tổ họ Bùi. Cứ cách năm, họ Bùi từ Ân Thi lên Vân Xuyên dự lễ, năm sau họ Ngô gốc Bùi của Vân Xuyên lại về Ân Thi dự lễ giỗ tổ tại quê gốc.
Lại nói về người con nuôi, cậu bé được đổi tên thành Ngô Văn Hữu, sau trở thành tổ thứ nhất làng Vân Xuyên. Ngô Văn Hữu làm quan triều vua Lê chúa Trịnh, được ban Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Hàn lâm viện, Trụ thượng quốc. Đời thứ hai của họ Ngô là cụ Ngô Văn Khuyến, cũng làm quan trong triều và được phong Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, bộ Hộ hữu Thị lang.
Ngô Dụng là con của cụ Ngô Văn Khuyến. Tương truyền, Ngô Dụng khi mới sinh ra tướng mạo khôi ngô tuấn tú, mắt trong và sáng, hai tai dày và to, đằng sau phía vai phải có một nốt ruồi đỏ chót. Thuở nhỏ nổi tiếng thông minh hiếu học, khi đó, cha của Ngô Dụng đã tự bỏ của nhà mở lớp mời thầy giỏi, rồi cho con và con em người khác trong làng tới học.
Thuở nhỏ, Ngô Dụng còn được cha gửi tới học Tiến sĩ Trịnh Đức Liên ở làng Đại Mão (nay thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh). Năm 12 tuổi, Ngô Dụng đi thi Hương nhưng bị các quan trường chê là nhỏ tuổi nên không cho thi. Năm 15 tuổi, Ngô Dụng dự thi Hương đỗ tam trường. Năm 19 tuổi lại thi Hương đỗ tứ trường. Năm 29 tuổi tham gia thi Hội, đỗ tam trường.
Sau khi đỗ thi Hương, Ngô Dụng được bổ làm quan Huấn đạo. Năm Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái thứ 2 (1721) đời vua Lê Dụ Tông, triều đình mở khoa thi thường kỳ để kén chọn người hiền tài, Ngô Dụng tham gia ứng thí khi 38 tuổi.
Kỳ thi này được miêu tả có 3.000 sĩ tử dự thi, triều đình lấy đỗ 25 người, Ngô Dụng đỗ hàng thứ 7. Khi vào dự kỳ thi Đình để phân hạng tiến sĩ, ông được ban hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Bia đề danh Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1721) do Hàn lâm viện Thị độc, Tri Thị nội Thư tả Hộ phiên Đoàn Bá Dung vâng sắc soạn viết rằng: “Khi ấy chọn lọc rất kỹ, số người mặc ngân bào vào trường có đến gần ba nghìn người, số người được mực nhạt đề tên chỉ có 25 người. Sang tháng sau, tiến vào điện đình, nhà vua ra đầu đề, hỏi về đường lối trị nước. Ngày hôm sau, các quan giữ việc đọc quyển bưng quyển lên đọc để nhà vua soi xét, ấn định thứ bậc cao thấp...
Xướng danh xong, các quan bộ Lễ mang bảng vàng đến cửa nhà Thái học niêm yết. Khi ấy người xem rất đông: Xe ngựa dập dìu, áo xiêm tấp nập, ai cũng nói: Từ khi trung hưng đến nay, khoa thi này lấy được nhiều người hơn cả.
Mùa Xuân năm sau, cử hành các điển lễ: Cấp mũ áo cân đai cho có vẻ vinh hoa; đãi tiệc yến cành hoa cho có vẻ long trọng. Ban tiền bạc thêm để tỏ ơn riêng đằm thắm. Làm cửa nhà mới cho có chỗ ở đường hoàng. Lại ấn cho phẩm tước, có địa vị, ơn trên thực là dồi dào. Sau nữa, cho khắc tên vào bia đá dựng trong Quốc học”.
Cứu làng Chèo khỏi họa tru di
Sau khi đỗ Tiến sĩ, Ngô Dụng được bổ làm quan Công lang Binh khoa cấp sự trung. Tuy xuất thân văn quan, nhưng Ngô Dụng lại từng nhiều lần đảm nhận chức võ quan và trực tiếp cầm quân đi đánh dẹp các cuộc nổi loạn. Ông trải qua rất nhiều chức vụ như: Giám sát ngự sử, Lại bộ Tả thị lang, Tham tụng. Vì có công, ông được ban họ chúa đổi là Trịnh Ngô Dụng.
Trong khoảng thời gian nắm quyền (từ 1729 đến 1740), Uy Nam vương Trịnh Giang tỏ ra bạo ngược, phế truất và sát hại vua Lê Duệ Tông, lập Lê Thuần Tông lên ngôi. Nhiều đại thần như Thượng thư Lê Anh Tuấn, Tể tướng Nguyễn Công Hãng, Trấn thủ Đỗ Bá Phẩm, Thiêm quận công Trương Nhưng đều bị xử chết.
Trịnh Giang còn xây dựng nhiều công trình chùa chiền làm hao tiền tốn của và nặng nhọc sức dân. Thậm chí còn tung hê cho việc mua bán quan tước. Việc này, sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” viết rằng: Năm 1736, Trịnh Giang ra lệnh: Quan và dân đều cho phép nộp tiền. Các viên quan trong triều ban từ lục phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan tiền sẽ được thăng chức một bậc; với người dân, ai nộp 2.800 quan được bổ thụ tri phủ, nộp 1.800 quan được bổ thụ tri huyện.
Sau khi bị sét đánh chết hụt, Trịnh Giang bị bệnh “kinh quý”, tâm thần bất định, hay hoảng hốt và sợ hãi, phải đào hầm, làm cung để trốn. Phủ chúa rối ren nên các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra ở nhiều nơi. Đáng chú ý là cuộc khởi nghĩa của Quách Công Thi (Lạc Sơn, Hòa Bình), nhà sư Nguyễn Đương Hưng (Tam Đảo), Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất, Nguyễn Danh Phương, Vũ Đình Dung, Vũ Trác Oánh, Nguyễn Tuyển…
Năm 1740, nhân khi Tổng thái giám Đề quận công Hoàng Công Phụ phải đi đánh dẹp loạn Nguyễn Tuyển ở Ninh Xá, bà Trịnh Thái phi Vũ thị (mẹ Trịnh Giang) cho triệu Bồi tụng Hữu tư giảng Nguyễn Quý Cảnh đến khuyên Trịnh Doanh (em ruột Trịnh Giang) lên thay. Quý Cảnh đem việc ấy nói với Bồi tụng Nguyễn Công Thái và các đại thần Trịnh Đạc, Vũ Tất Thận, Nguyễn Đinh Hoàn. Và việc thành công, Trịnh Giang bị giam ở chính cung Thưởng Trì, 20 năm sau thì chết.
Để diệt trừ hậu họa, Trịnh Doanh sai Trịnh Ngô Dụng cầm quân về tàn sát làng Chèo, tổng Quế Trạo (nay thuộc xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang), nơi có hành cung Quế Trạo - quê hương của Hoàng Công Phụ.
Không thể tàn sát người dân vô tội chỉ vì họ ở cùng quê Hoàng Công Phụ nên Trịnh Ngô Dụng quyết định trái lệnh chúa. Ông cử người tâm phúc bí mật chạy ngựa về báo cho người sang lánh sang tổng Hoàng Vân - quê hương của mình để trốn.
Ngày hôm sau, Trịnh Ngô Dụng cầm quân về làng Chèo giết một số trâu bò gà lợn còn sót lại. Ông lệnh cho đắp hàng trăm ngôi mộ chôn và rải vôi bột khắp nơi. Giám quan triều đình về thấy như vậy, tưởng đã hủy diệt làng Chèo, vội quay ngựa về bẩm báo với chúa thượng là làng Chèo đã bị xóa sổ.
Trung hiếu đôi đường vẹn chữ nhân
Đến đời chúa Trịnh Sâm ban đại xá, người dân làng Chèo từ tổng Hoàng Vân lại về bản quán. Tưởng nhớ công ơn của Trịnh Ngô Dụng, hàng năm, dân làng Chèo lại mang lễ lên tổng Hoàng Vân tạ ơn.
Ngày nay, trên quê hương Hoàng Vân vẫn còn lưu truyền bài thơ ca ngợi Tiến sĩ Ngô Dụng: Đệ nhất quận công tổng Hoàng Vân/Trụ quốc thượng giai, phúc đẳng thần/Lăng tẩm không xây, thông reo mãi/Nấm mộ đơn sơ giữa cõi trần/ Trí dũng song toàn phò non nước/Trung hiếu đôi đường vẹn chữ nhân/Ngàn năm tên tuổi ghi bia đá/ Văn Miếu lưu truyền đến vạn xuân.
Trịnh Ngô Dụng đi sứ năm 1746, song vì mắc bệnh hiểm nghèo nên phải về quê nhà dưỡng bệnh. Nhà vua cử quan ngự y về thuốc thang chăm sóc đến giây phút cuối cùng. Vào giờ Mão ngày mồng 3 tháng 7 năm Bính Dần (1746), Trịnh Ngô Dụng qua đời. Bỗng từ trời cao, một tiếng hạc kêu vang, người dân các tổng lân cận nặng trĩu tiếc thương.
Nghe tin dữ, triều đình thương tiếc, vua xuống chỉ bãi chầu 3 ngày, gửi về gia đình Trịnh Ngô Dụng 500 lạng bạc, 10 tấm gấm hoa vàng để vào việc tang. Vua sai Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Nguyễn Trọng Đôn về phúng viếng, đọc văn tế thống thiết. Sau đó, triều đình lại truy tặng Trịnh Ngô Dụng chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Trụ quốc thượng giai, Binh bộ Thượng thư, Nhi quận công.
Hậu duệ họ Ngô làng Vân Xuyên còn lưu giữ được tại từ đường lư hương gỗ sơn mài có vẽ hai bức tranh sơn thủy - di vật mà triều đình nhà Lê ban tặng từ năm 1746.
Từ đường họ Ngô vốn là ngôi trường học thuở xưa Trịnh Ngô Dụng khi đương chức Huấn đạo xây dựng để dân làng đến học. Đến nay, từ đường qua nhiều lần trùng tu nên cơ bản mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Bình đồ kiến trúc từ đường kiểu chữ nhất gồm ba gian, cột gỗ lim, các cấu kiện kiến trúc khác phần nhiều bằng chất liệu gỗ xoan.
Phần nội tự được bài trí theo quy cách của từ đường. Tại gian giữa đặt bộ kỷ để tiếp khách; tiếp đến là nhang án, nơi bài trí đồ thờ tôn nghiêm của tiên tổ. Hai bên đăng đối bày đủ cây đèn, cây nến, đài trầu, lư hương sơn mài.
Trong di tích còn bảo lưu một hiện vật quý hiếm khó nơi nào lưu giữ được đó là cỗ đòn khiêng kiệu triều đình ban phong cho Tiến sĩ Trịnh Ngô Dụng khi đăng khoa, vinh quy bái tổ mùa Xuân năm Tân Sửu (1721). Phần nội tự còn treo các bức hoành phi, câu đối và một số tư liệu Hán Nôm nói về truyền thống hiếu học của gia tộc họ Ngô.
Theo gia phả, con trưởng của Tiến sĩ Trịnh Ngô Dụng là Ngô Văn Thiết đỗ thủ khoa (Cử nhân) khoa thi năm Nhâm Tý (1732), được cử đi nhậm chức tri phủ Yên Thế. Các đời sau cũng nối nhau đỗ đạt, như cụ Ngô Văn Dũng đỗ tam trường ở tuổi 20, nhưng không ra làm quan mà ở nhà dạy học và bốc thuốc chữa bệnh.
“Nhớ ông xưa: Chí khí anh hùng, người tốt hơn vàng ngọc, học rộng hiểu sâu, văn chương như gấm dệt thêu hoa. Sinh thời ông làm quan, lúc ở trong triều, khi về phủ huyện, ở đâu cũng giữ được liêm khiết. Lúc đi dẹp giặc, lúc đến an dân, trăm họ đâu đâu đều mến mộ, coi như quan phụ mẫu, muốn tâu vua xin cho ông ở lại lâu dài.
Lúc đại trào, khi tiểu truật, ông đưa ý kiến ra bàn luận, mọi người đều phải chú ý lắng nghe. Nay ông mất đi, triều thần như mất một cánh tay, đau buồn khôn xiết. Người làm tôi mà trung như ông, cần như ông; người làm quan mà liêm như ông, chính như ông, ai chẳng tiếc thương” - (Văn tế Trịnh Ngô Dụng do Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Nguyễn Trọng Đôn soạn đọc).