Vũ Khâm Lân hiệu là Di Trai, quê xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương). Ông sinh khoảng năm 1703, trong một gia đình nghèo khó.
Đại khoa hay chữ
Các nguồn sử liệu đều cho biết, vì Vũ Khâm Lân là con nhà nghèo nên ông phải sớm làm lụng mưu sinh, và cố công học tập để mau chóng thành đạt. Tại khoa thi năm Đinh Mùi, niên hiệu Bảo Thái 8 (1727) đời vua Lê Dụ Tông, Vũ Khâm Lân đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Sau khi đỗ đạt, ông giữ các chức quan cấp sự trung. Sau đó được điều chuyển Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam.
Đây là khoảng thời gian mà diễn biến chính trị - xã hội ở Đàng Ngoài vô cùng phức tạp rối ren, dẫn đến các cuộc nổi dậy của nông dân. Một lực lượng nổi dậy khác do nhóm quý tộc nhà Lê, đứng đầu là Lê Duy Mật cũng nổi dậy ở miền núi Thanh Hóa, Ninh Bình. Hay cuộc nổi dậy của Nguyễn Hữu Cầu ở xứ Đông khiến triều đình Lê - Trịnh phải điều quân đánh dẹp vất vả.
Từ năm 1739, để đối phó với phong trào nổi dậy diễn ra ở nhiều địa phương Đàng Ngoài, triều đình Lê - Trịnh đã điều động phần lớn quan lại (kể cả các bậc đại khoa) và quân lính tham gia trấn áp. Trong thời gian này, Vũ Khâm Lân được bổ nhiệm, thuyên chuyển kiêm giữ nhiều chức vụ hoặc làm các công việc có liên quan đến việc quân.
Năm 1746, Vũ Khâm Lân được thăng chức Hữu thị lang bộ Lại, ban tước Hầu. Cũng trong năm này, ông được thăng làm Tham tụng ở Phủ đường chúa Trịnh. Ở triều, ông dự bàn chính sự, ra ngoài giữ việc binh cơ lập không ít công lao, được cử đi sứ nhà Thanh. Năm 1756, ông được thăng chức Bồi tụng Đô ngự sử, tước Quận công.
Đương thời, Vũ Khâm Lân có tiếng là người hào hiệp, khẳng khái, không câu thúc, gặp việc dám nói dám làm, không a dua kẻ quyền quý. Bởi vậy, ông bị những người giữ chức vụ thời bấy giờ ganh ghét. Có thời gian ông đang giữ chức Hữu thị lang bộ Lại thì bị giáng, mãi sau mới được thăng.
Bên cạnh đó, Vũ Khâm Lân còn nổi tiếng là vị đại khoa hay chữ, có tài văn chương. Ông đã góp thêm nhiều truyện mới vào cuốn “Lĩnh Nam chích quái”, soạn và cho khắc bia bài “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký” nói về cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng ở đền thờ vị danh sĩ này, viết bài khen “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ...
Tiến sĩ Vũ Khâm Lân góp thêm nhiều truyện mới vào cuốn “Lĩnh Nam chích quái”. |
Mối tình với cô đào xinh đẹp
Xung quanh vị tiến sĩ này còn được người đời kể lại một chuyện tình, dù lãng mạn nhưng cũng éo le bậc nhất trong tình sử nước nhà.
Chuyện xưa kể lại rằng, Vũ Khâm Lân nguyên quê ở Tứ Kỳ, Hải Dương nhưng sớm mồ côi mẹ. Gặp cảnh mẹ kế con chồng khó khăn nên ông đã phải sớm bỏ nhà ra Thăng Long ở trọ tại đất Dịch Vọng, vừa làm thuê vừa học.
Năm ấy, ở làng Dịch Vọng mở hội. Trong không khí nhộn nhịp ấy, làng có mời đào nương Diễm Hương trẻ đẹp, hát hay có tiếng trong vùng đến diễn. Người đến xem hát đứng kín vòng trong vòng ngoài. Mỗi lần cô đào hát xong một tiết mục, người ta lại thi nhau tung tiền lên để thưởng.
Như nhiều thanh niên trai tráng đến xem hội, chàng học trò nghèo Vũ Khâm Lân đã si mê nhan sắc cô đào Diễm Hương từ cái nhìn đầu tiên. Không có tiền để thưởng cho cô đào, Khâm Lân chỉ đứng nép bên cột đình lẳng lặng xem cô đào biểu diễn.
Lúc cô đang hát, bỗng có ánh đuốc lớn chiếu qua phía Vũ Khâm Lân đứng, khiến nàng bắt gặp ánh mắt chàng. Vũ Khâm Lân khi ấy cũng đâu có ngờ rằng cô đào lại chú ý đến anh học trò nghèo đứng nép bên cột đình mà cô nghe tiếng học giỏi đã lâu.
Bất giác đào nương đưa mắt nhìn về phía Khâm Lân thì bắt gặp ánh mắt chàng đang nhìn mình say đắm. Bốn mắt nhìn nhau làm lòng Diễm Hương xao xuyến. Nàng xúc động quá không hát được nữa. Mọi người tưởng nàng đã mệt liền dìu nàng vào trong đình nghỉ ngơi. Chàng thư sinh cũng bẽn lẽn ra về.
Thật là chuyện đời cũng lắm bất ngờ, giữa thời phong kiến, tình yêu hôn nhân là chuyện gả bán của các bậc phụ huynh mà đào nương Diễm Hương lại bất chấp rào cản ấy.
Sáng hôm sau, nàng chủ động tìm tới nhà trọ của Khâm Lân. Còn đang bồn chồn về chuyện người trong mộng bị ốm mà mình chưa có cách gì đến thăm thì tự nhiên người ta xuất hiện trước mặt, khiến chàng thư sinh luống cuống không biết làm sao.
Thế rồi bao nhiêu điều muốn biết, bao nhiêu điều muốn nói khi ấy đều quên sạch, chàng chỉ ngượng nghịu hỏi: Hôm qua chị bị ốm? Không dè cô đào lại bạo dạn nói như đã quen nhau từ lâu, mà chàng thì bỏ mặc chẳng đoái hoài.
Rồi không để Khâm Lân thanh minh, nàng mạnh dạn đặt vào tay chàng 10 quan tiền và bảo: Thiếp biết chàng khó khăn nên đến giúp chàng ít tiền gọi là để mua giấy bút học hành.
Và rồi từ đó, cứ vài bữa cô đào ấy lại đến thăm mang theo gạo tiền cho Khâm Lân. Tình yêu giữa họ dần trở nên thắm thiết.
Nhiều lần Vũ Khâm Lân muốn nàng chiều chuộng mình như vợ chồng, nhưng nàng đều cự tuyệt. Nàng nói: “Nếu thiếp là phường gió trăng thì thiếu gì trang phong lưu công tử theo đuổi. Dẫu là con nhà hát xướng nhưng chàng đừng coi thường thiếp là hạng người hư thân mất nết. Đời này con hát có gì là xấu chỉ có người nghĩ xấu về họ mà thôi. Bởi thế từ nay xin cáo biệt”.
Biết Diễm Hương yêu mình cao thượng nên Khâm Lân hổ thẹn xin lỗi mãi. Nhưng từ đó nàng chỉ gửi gạo tiền đến cho chàng mà nhất định không gặp mặt. Năm 1727, Vũ Khâm Lân đi thi đỗ tiến sĩ. Sau lễ vinh quy, nhiều nhà danh giá bắn tiếng gả con gái cho chàng.
Gia đình Khâm Lân cũng đã tìm được một gia đình phú hộ cho chàng làm rể. Nhớ đến cô đào đã giúp đỡ mình thành đạt, Khâm Lân toan cưỡng lại bậc sinh thành, song sự phản đối và ý chí của chàng không đủ mạnh nên đám cưới vẫn tiến hành.
Vũ Khâm Lân ân hận cho tìm nàng, nhưng không thấy. 20 năm sau, tình cờ Khâm Lân gặp lại nàng. Lúc này Diễm Hương sống với mẹ và đã già đi nhiều. Ái ngại cho hoàn cảnh của nàng và cũng muốn chuộc lỗi, ông xin được đưa nàng và mẹ già về nuôi, nhưng được một thời gian bà cụ mất thì Diễm Hương cũng tạ từ ra đi.
Sắc phong cho Tiến sĩ Vũ Khâm Lân ngày 6 tháng 10 năm Cảnh Hưng 7 (1746). |
Phát lộ mộ quan tiến sĩ
Ngày nay, tại thôn Ngọc Lặc vẫn còn nhà thờ Tiến sĩ Vũ Khâm Lân cùng hệ thống di vật bia ký, đại tự, câu đối cổ và 19 đạo sắc phong. Hằng năm, cứ vào ngày 20/8 âm lịch, dòng họ Vũ lại tổ chức cúng giỗ tưởng nhớ tới công ơn tiền nhân và không ngừng phấn đấu noi gương Tiến sĩ Vũ Khâm Lân – vị đại khoa hay chữ và hết lòng vì nước.
Vũ Khâm Lân mất ngày 20/8 âm lịch, không rõ năm. Triều đình truy tặng ông chức Thượng thư Binh bộ. Con trai ông là Vũ Cơ (1736 - ?) cũng đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm 1763, làm quan tới chức Hàn lâm viện hiệu lý, trấn thủ Lạng Sơn.
Theo người thôn Ngọc Lặc, tại cánh đồng làng xưa có một gò đất cao giáp với đầu làng Mỗ Đoạn (nay thuộc xã Đại Sơn, huyện Tứ Kỳ) gọi là đống Quan Lặc. Vì sao gọi là đống Quan Lặc thì không ai biết rõ, chỉ tương truyền rằng đây là nơi an táng của một vị quan nên được gọi là đống Quan, còn Lặc là cách gọi ghép tên làng.
Năm 1953, thực dân Pháp đóng bốt Bỉnh Di, đống Quan Lặc cách bốt khoảng 50m. Để thuận tiện cho việc quan sát và tránh bị Việt Minh ẩn nấp tấn công, quân giặc đã san phẳng khu vực đống Quan Lặc.
Vào năm 1987, một gia đình ở thôn Mỗ Đoạn (cách khu vực đống Quan Lặc xưa khoảng 200m) đào ao. Thợ lái máy xúc đã đào thấy một số mảnh quan tài, một phần thi hài và một số đồ tùy táng cùng một tấm bia đá.
Sau khi nhờ người dịch, biết là của Tiến sĩ Vũ Khâm Lân, gia đình người này đã liên hệ với dòng họ Vũ ở làng Ngọc Lặc. Đại diện dòng họ đã xin chuyển toàn bộ phần mộ về an táng tại nghĩa trang địa phương.
Tấm bia đá dựng ốp vào tường trên phần mộ. Trên bia có khoảng 70 chữ (một số chữ đã bị mờ), có nội dung: “Triều Lê, Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1727) - Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Nhập thị tham tòng phụng Chánh sứ ngự sử, Đài đô ngự sử, kiêm Tả chánh ngôn Quốc sử Tổng tài Ôn Quận công, được phong tặng làm Binh bộ Thượng thư, ban tên Thụy là Mẫn Đạt Vũ Tướng quốc, hiệu Di Trai tiên sinh; mộ táng tại Quan Sơn, xã Bỉnh Di...”.
Vũ Khâm Lân để lại nhiều tác phẩm như “Phủ Sát bí mật” nhưng bị thất truyền. Hiện, tại nơi ông ra đời còn lưu giữ 2 ngôi nhà được hậu duệ giữ gìn. Một là nhà ngang với chiếc giường gọi bằng tên cổ là “sàng”. Đây là một bằng chứng về sự liêm khiết của ông.
Làm quan đầu triều nhưng của cải để lại chỉ là chiếc “sàng” bằng gỗ dân dã. Ngôi nhà chính được trùng tu thành nhà thờ, còn giữ nguyên cột, vì kèo cũ. Trên bàn thờ là bức đại tự gồm 4 chữ “Nho trung lương tướng” (tướng giỏi trong làng nho) do vua ban tặng.