Ông chủ sợ Tư Bền bỏ dở vở kịch đương vui thì nguy bèn “cố khuyên giải và cấm không ai được báo tin gì về cha của Tư Bền nữa”. Tư Bền “được đánh lại tí phấn cho thêm xuân sắc”, được “sửa lại bộ áo mũ cho có vẻ ngộ nghĩnh hơn”, được “dắt lại dải áo”, “chùi nước mắt” và “đẩy ra sân khấu”. Tư Bền “phải hò, hét, ngâm, cười, múa, nhảy để mua gượng lấy những tràng vỗ tay”... Những trớ trêu của vai kép đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc khi gấp lại trang sách truyện ngắn “Kép Tư Bền” của Nguyễn Công Hoan.
Nguyễn Công Hoan là một bậc thầy truyện ngắn của văn học Việt Nam hiện đại. Nhà văn hiện thực ấy đã để lại một di sản nghệ thuật với hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu thuyết có giá trị. Sáng tác của Nguyễn Công Hoan luôn tái hiện cuộc sống dưới nhiều góc độ mới mẻ. Tác phẩm nổi tiếng của ông được nhắc đến nhiều đó là Bước đường cùng, Tranh tối tranh sáng, Kiếp hồng nhan, Người ngựa, ngựa người... và không thể không kể đến Kép Tư Bền.
Truyện ngắn Kép Tư Bền khắc họa một cách ấn tượng số phận, tính cách của nhân vật chính là Tư Bền - một nghệ sĩ hát bội nổi tiếng, trong một hoàn cảnh trớ trêu: Phải hò, phải hét, phải múa, phải nhảy, phải cười ha hả, phải pha trò trong lúc ruột gan đang nhàu như dưa, xót như muối vì cha đang lâm bệnh nặng. Thông qua đó, nhà văn Nguyễn Công Hoan muốn truyền tải những tư tưởng về sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ, đồng thời phản ánh cuộc sống túng thiếu, nghèo khổ của họ trong xã hội cũ.
Nghệ sĩ hát bội Tư Bền
Tư Bền là một nghệ sĩ hát bội nổi tiếng. Tiếng tăm của Tư Bền được nhắc đến ngay từ những dòng mở đầu của truyện ngắn: “Các ngài thích xem hát bội chẳng ai không biết kép Tư Bền. Ấy, anh ta chỉ nổi tiếng về cái tài bông lơn, lắm lúc ra sân khấu chẳng cần nói một câu khôi hài nào, nhưng chỉ nhìn một cái điệu bộ cỏn con của anh ta các khán quan cũng đủ ôm bụng mà cười, vỗ tay đôm đốp. Anh ta ở Sài Gòn ra hát ở Hà Nội đã ba năm nay”. Nhờ sự nổi tiếng ấy mà “hễ rạp nào khéo dùng anh ta một độ là cũng đông khách”,“tối nào bà con Hà thành đọc chương trình hay xem báo, thấy kép Tư Bền đóng vai giễu là cũng nô nức đi xem. Lắm người đến chậm phải mang tiền về không, phàn nàn rằng rạp chật quá”. Những tối hát có sự xuất hiện của Tư Bền thì “các hý viện đều trưng lên là buổi hát đặc biệt”.
Ngay từ những dòng mở đầu thiên truyện, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã để nhân vật chính xuất hiện một cách ấn tượng, không phải bằng miêu tả trực tiếp mà bằng tiếng tăm của vai kép, bằng cảnh chen lấn, nô nức của người xem khi anh xuất hiện trong các rạp hát. Cách mở đầu này vừa gợi ra một nét văn hóa của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ - khi hát bội, diễn kịch ở phương Tây vừa du nhập - vừa để nhà văn đề cao tài năng của người nghệ sĩ.
Sau hơn một tháng, vì cha ốm nên Tư Bền không diễn đâu cả. Nhưng rồi “cái số tiền để dành của một vai kép dần dần đi bài tẩu mã” để thuốc thang, chạy chữa cho cha, Tư Bền không còn cách nào khác là phải đi vay trước tiền từ các ông chủ rạp hát. Biết danh tiếng của Tư Bền có thể là món hời lớn, nên các ông chủ rạp kịch trường đã cho anh vay. Nhưng ngay sau đó, ông chủ lại đến nhà anh “nhắc đến món nợ” và dọa dẫm: “Cậu không trả tôi sẽ đem ra tòa đó”. Để không bị hỏng việc, ông chủ lại phải “ngọt ngào dỗ”: “Bấy lâu cậu nghỉ hát ở các rạp khách nhắc nhở luôn đấy!”. Mục đích của ông chủ rạp chỉ là muốn kéo Tư Bền đi diễn, muốn nhờ Tư Bền giúp cho vai chính trong vở mới do một văn sĩ đại danh soạn - một vở hài kịch theo lối tuồng cổ. Sau một hồi bàn bạc, thỏa thuận về việc chăm sóc cha và việc tập vở, Tư Bền đã nhận lời.
Đón sự trở lại của Tư Bền, nhà hát cho “ô tô quảng cáo chạy rong khắp phố để thả chương trình, và vải căng ở các ngã tư”. Bà con sính xem hát “nô nức rủ nhau đi xem buổi biểu diễn có Tư Bền sắm vai chính”. Tối hôm đó, “cửa rạp kịch trường đèn thắp sáng trưng”, chiếu rõ cái cảnh “người đứng lô nhô như luống hoa trăm hồng ngàn tía, ong bướm chờn vờn”;“Trên thềm, dưới bậc, giữa đường, nom nghìn thiếu niên nam nữ túm tụm lại”;“Tiếng nhạc hòa trong rạp du dương trầm bổng, chứa chan biết bao tình tứ, ái ân, như câu như kéo”… Nhà hát kịch cứ thế tha hồ mà “moi túi lấy tiền”người xem. Bằng những câu văn dài, nhiều nhịp, nhiều liên, nhiều so sánh, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã vẽ ra trước mắt người đọc biển người đang nô nức, đón đợi để được xem vai diễn của Tư Bền. Cảnh người đi xem hát giúp ta hình dung ra một nét văn hóa xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX, đồng thời để khẳng định tài nghệ của người nghệ sĩ hát kép.
Những vai kép của Tư Bền ăn sâu vào trí nhớ của người xem, người ta “nhắc lại câu bông lơn của kép Tư Bền”, họ “bắt chước điệu bộ của kép Tư Bền” trong lúc “nóng ruột nóng lòng mong cho chóng đến giờ mở màn sân khấu”. Sức hút của vai diễn Tư Bền đang phản ánh một phần đời sống xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: Hiện thực xã hội nhiễu nhương như những vai hề, rất đông quần chúng tìm đến vai diễn kép hiếm hoi để giải trí giữa lúc làn sóng văn hóa phương Tây đang ồ ạt du nhập. Đây cũng chính là hiện thực mà nhà văn Nguyễn Công Hoan nhắc đến trong nhiều sáng tác khác như: Xin chữ cụ nghè, Thế là mợ nó đi Tây…
Những trớ trêu trong vai kép
Là một nghệ sĩ có tài, được nhiều người ái mộ nhưng đã hơn một tháng rồi Tư Bền không đi diễn là bởi “đã hơn một tháng nay, cha anh ốm”. Tư Bền “rầu gan nát ruột, chẳng thiết đến sự làm ăn”. Số tiền kiếm được của một vai kép để dành lâu nay Tư Bền đều đã mua thuốc thang chạy chữa cho cha. Khi không còn tiền nữa, Tư Bền lại đi vay trước các ông chủ rạp hát. Tình cảnh này đã đẩy Tư Bền vào một tình huống trớ trêu: Chấp nhận để người cha đang ốm, nằm ở nhà một mình để đi hò, hét, múa, nhảy, để cười ha hả, để pha trò, kiếm tiền, mua thuốc cho cha. Ông chủ rạp hát bằng mọi cách ngọt nhạt để Tư Bền sắm vai mới. Tư Bền vì số tiền phải trả cho ông chủ nên không còn cơ hội thoái thác. Kịch tính của câu chuyện bắt đầu được đẩy lên từ mâu thuẫn này.
Nếu nhận vai, Tư Bền sẽ phải học và tập diễn trong độ nửa tháng. Anh ta “lẩn vẩn nghĩ ngợi biết bao nhiêu điều: Trong nửa tháng, trong mười lăm hôm trời, mỗi ngày anh phải xa cách cha mấy tiếng đồng hồ để đi học diễn. Cha anh ốm. Trong khi anh vắng nhà, ai trông nom săn sóc thay anh?”. Ngay lúc đó, anh “đáp phắt: - Thôi, xin lỗi ông, tôi bận quá mà!”. Nhưng rồi câu chuyện giữa ông chủ rạp hát và người cha ốm đang nằm trên giường bệnh đã kèm theo lời hứa: “Cậu mà nhận lời thì món tiền ấy cậu để đến bao giờ cũng được. Còn tiền hoa hồng khi diễn tấn “Ông huyện ba phải” này, cậu cứ lấy cả để thuốc thang cho ông cụ”. “Cái sức làm cho anh kép Tư Bền có thể nghĩ đến sự bỏ cha ốm một mình là ở câu nói ấy”. Ông chủ còn cho Tư Bền ở nhà học vở, đến hôm diễn thử lần cuối mới phải đến rạp. Tư Bền đã đồng ý. Ông chủ muốn chắc ăn bèn “làm giấy giao kèo”.
Trên sân khấu của rạp kịch trường hôm đó, sau một hồi chuông vừa dứt, màn kéo lên, Tư Bền “lững thững bước ra, cúi đầu chào” trong tiếng vỗ tay “đôm đốp như pháo nổ” cùng tiếng reo hò của làn sóng người xem nô nức như hội. Tư Bền ăn mặc ngộ nghĩnh, “cái mồm bôi nhọ nhem”, đứng trên sân khấu làm điệu bộ “rặn ra mà cười ha hả”. Hết cảnh đầu, Tư Bền nghỉ một chốc, sau đó lại phải “ra trò”, “phải hét, phải dằn từng tiếng, phải ngâm từng câu, phải làm những điệu bộ, phải cười ha hả” như cảnh thứ nhất. Tư Bền vì tiền mà “phải” nhận vai, vì đã kí giao kèo rồi nên “phải” diễn, chứ trong lòng thì “không thể cười được”. Toàn bộ tâm trí anh đang để cả ở nhà, nơi cha anh đang ốm nặng, “phải” nằm một mình.
Bởi thế nên, trong mỗi cảnh diễn, Tư Bền đều thấy “sao mà lâu thế!”. Có lúc “cái vẻ lo âu của anh nó hiện ra trước mắt”, ngay trên sân khấu, chỉ có điều người xem hát không để ý nên không nhìn rõ. Khi “đang phệnh phạo trên sân khấu, khi người ta đương vỗ tay đôm đốp” thì Tư Bền nghe thấy có người ở trong phòng nói ra: “- Nguy hơn ban nãy. Đã cấm khẩu rồi!”. Vì ở thời điểm “nhiều cái vui trò”, vì “hàng mấy nghìn con mắt đương chăm chắm vào anh và im phăng phắc. Họ chỉ chờ anh há miệng để lại được lăn ra mà cười và vỗ tay”, nên Tư Bền lại buộc phải ở lại sân khấu.
Sau cảnh thứ hai, lúc “đang ngồi thừ trong buồng trò”, lại nhận được tin báo “hiện nay cha anh đã mê đặc, chân tay lạnh cả rồi”, Tư Bền “bỗng ứa hai hàng nước mắt, rồi khóc nức nở: - Cha ơi!”. Ông chủ sợ Tư Bền bỏ dở vở kịch đương vui thì nguy bèn “cố khuyên giải và cấm không ai được báo tin gì về cha của Tư Bền nữa”. Tư Bền “được đánh lại tí phấn cho thêm xuân sắc”, được “sửa lại bộ áo mũ cho có vẻ ngộ nghĩnh hơn”, được “dắt lại dải áo”, “chùi nước mắt” và “đẩy ra sân khấu”. Tư Bền “phải hò, hét, ngâm, cười, múa, nhảy để mua gượng lấy những tràng vỗ tay”. Bi kịch đã xảy ra khi “cái cảnh thương tâm của anh Tư Bền đi đôi với cái bông lơn cứ diễn ra mãi, mỗi chốc lại càng thương tâm hơn lên”. Phía sau vai diễn, sau ánh đèn sân khấu là ruột gan “nhàu như dưa, xót như muối”.
Trớ trêu hơn với Tư Bền, khi cảnh cuối cùng của vở diễn lại không phải là cảnh kết thúc đêm diễn. Sau tiếng “vỗ tay đôm đốp thật dài, dài mãi” là tiếng kêu ầm “- Bis! Bis!”. Tư Bền lại “phải giấu bộ mặt rầu rầu”, để “vui vẻ mà diễn lại đoạn cuối lượt nữa”. Sau màn tặng hoa, bắt tay, véo mũi, khen của bao nhiêu người trên sân khấu, Tư Bền “lật đật chạy vào buồng trò cởi vội mũ áo và rửa quàng mặt mũi”, anh nhận được “tập giấy bạc của ông chủ để sẵn” và nhận luôn hung tin “- Mau mà về. Anh Tư! Hỏng từ ban nãy mất rồi! Khốn nạn thân anh quá!”.
Câu chuyện về vai kép của Tư Bền đã khép lại sau màn nhung nhưng những trớ trêu của số phận nhân vật thì vẫn mãi làm người đọc xót xa. Trong truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã sử dụng biện pháp tương phản, đối lập, giữa bên trong và bên ngoài, giữa hành động và nội tâm để miêu tả một cách sâu sắc bi kịch của nhân vật. Chính trong mâu thuẫn ấy, tính cách nhân vật hiện lên một cách sống động, đa chiều. Trên sân khấu, Tư Bền là nghệ sĩ được yêu quý, biết gạt bỏ mối riêng tư vì khán giả. Sau sân khấu, Tư Bền là người con yêu thương cha hết mực. Tất cả những phẩm chất ấy sẽ không mâu thuẫn, không trở nên trớ trêu nếu cuộc sống của vai kép không túng thiếu, nghèo khổ. Đó cũng là trớ trêu của biết bao số phận người tài trong xã hội cũ trong trang văn của Nguyễn Công Hoan và của những nhà văn hiện thực phê phán cùng thời như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố…