“Người chép sử” Đông Hồ
Vào năm 2015, một trong mười nghệ nhân dân gian tỉnh Yên Bái được Chủ tịch nước ký Quyết định phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú” là nhà văn Hoàng Tương Lai, người dân tộc Tày chính gốc xã Xuân Lai (Yên Bình). Nhưng với ông, không giải thưởng nào ý nghĩa bằng việc được hát, được làm sống lại những làn điệu dân ca thấm đẫm hồn dân tộc mình ngay trên chính mảnh đất quê hương.
Bởi là một người gắn bó máu thịt với quê hương, được quê hương bồi đắp cho một tâm hồn biết yêu thương nên hơn ai hết, nhà văn Hoàng Tương Lai hiểu rằng, phải biết nhớ về cội nguồn và hơn nữa là trân trọng, gìn giữ những thứ mà dân tộc đã xây dựng trong cả nghìn năm.
Một điều may mắn là Hoàng Tương Lai được thừa hưởng máu văn chương từ cha - cố nhà văn Hoàng Hạc - nhà văn đầu tiên của đất Hoàng Liên Sơn đã có công lớn đặt nền móng gây dựng Hội Văn học nghệ thuật Yên Bái. Tất cả những yếu tố đó đã vun đắp trong tâm hồn Hoàng Tương Lai từ thuở thơ ấu bằng tình yêu cháy bỏng với văn hóa dân tộc Tày.
Để rồi, sau thành công của tác phẩm đầu tay - tập truyện ký “Những ngày chiến đấu ở cánh đồng Chum” được giải Khuyến khích trong cuộc thi viết về “Những kỷ niệm sâu sắc về tình hữu nghị Việt - Lào”, do Hội Nhà văn Việt Nam và đại sứ quán hai nước tổ chức, từ đây Hoàng Tương Lai dần bước vào con đường văn chương và càng viết, càng say.
Đến nay, nhà văn Hoàng Tương Lai đã có hơn chục đầu sách được xuất bản. Những sáng tác của ông hầu hết là về vùng đất sông Chảy – Đông Hồ, về con người và vùng đất mà người Tày sinh sống. Chính vì vậy, người Tây Bắc gọi nhà văn Hoàng Tương Lai là “người chép sử” Đông Hồ. Những đầu sách của Hoàng Tương Lai phải kể đến: “Cây sẹt trổ hoa”, “Chõ xôi trưa ấy” - tập truyện ký Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc 2000, “Quà quê núi”, tập truyện thiếu nhi miền núi “Cô Ve sầu cho ruột, “Sông Chảy, những nét hoa văn” - ghi lại những nét đẹp văn hóa dân tộc Tày; “Bảy vía” - tuyển tập thơ…
Truyền nhân tiếp bước cha
Tây Bắc rộng lớn bao la nhưng đã là người Tày thì hầu như ai cũng biết đến cố nhà văn Hoàng Hạc. Ông là nhà văn người dân tộc đã gắn bó cả đời mình với những bản Tày, những trang văn của ông cũng thấm đượm văn hóa cổ xưa của dân tộc mình.
Từ khi nhà văn Hoàng Hạc qua đời, tất cả những cuốn truyện cổ Tày may mắn không bị lãng quên, nhà văn Hoàng Tương Lai đã tiếp nhận và phát triển thêm những đặc sắc cho vùng Tây Bắc.
Ngồi trong ngôi nhà sàn cổ kính ở Xuân Lai nghe chuyện về cố nhà văn Hoàng Hạc thì không ai biết chán. Hoàng Hạc chính là một kho cổ tích tuyệt mỹ của người dân tộc bản địa. Và thậm chí, ông còn là dịch giả độc nhất vô nhị của dân tộc Tày khi những năm cuối đời, ông đã dày công biên soạn dịch hàng chục cuốn sách cổ ra tiếng Kinh.
Năm 1999, nhà văn Hoàng Hạc qua đời nhưng ông đã kịp giao lại cho con trai là Hoàng Tương Lai những tư liệu quý giá để văn hóa Tày thêm đậm đặc. Là con “nhà nòi”, nên nhà văn Hoàng Tương Lai nhanh chóng tiếp bước người cha đi sưu tầm văn hóa Tày ở các bản làng xa xôi. Đến nay, hàng chục cuốn truyện cổ Tày đã được ông Lai dịch và biên soạn thành công.
Cũng từ những cuốn truyện cổ Tày đó, nhiều lễ hội của các bản làng được phục dựng. Hát Then, hát Cọi, hát Khắp và mới đây nhất là lễ hội Khảm Hải lần đầu tiên được trình diễn khiến cả Tây Bắc nhộn nhịp vui mừng.
Trong ngôi nhà sàn cổ hàng trăm năm tuổi, mặc cho cái nóng của mùa hè, giá lạnh của mùa đông, ông Lai vẫn miệt mài dịch những bản trường ca Tày. Nhấp một chén trà đắng, ông Lai bảo: “Có được những truyện cổ này không dễ chút nào, tôi phải xuyên rừng đến các bản làng để “hóng chuyện” rồi ghi chép lại”.
Có lẽ vì thế, mà ông Lai ngoài phận sự truyền nhân thì người ta còn đặt cho ông một biệt danh rất đáng yêu: Người hóng chuyện. Ông Lai gật gù với biệt danh ấy lắm. Cũng nhờ “hóng chuyện” mà cho đến nay, những cuốn sách ông dịch ra đều được bạn đọc đón nhận nhiệt tình.
Ông Lai kể: “Có những chuyến đi kéo dài cả tháng trời. Tôi đi khắp Tây Bắc, ở đâu có người Tày là tôi tìm đến. Các già làng trưởng bản cũng rất nhiệt tình kể chuyện. Nhưng để có được những câu chuyện hay, thì trước hết mình phải là người hay chuyện đã. Mình kể trước, họ kể sau và văn hóa xưa cứ thế hiện về”.
Có một thắc mắc là, làm như thế thì ông Lai thu được lợi gì? Ông mỉm cười thành thật: “Chẳng được cái lợi gì về tiền bạc, nhưng truyền nhân phải biết đặt cái lợi chung lên trên cái lợi riêng thì mới thành công được”. Thì ra, mỗi chuyến đi xa ông Lai đều bỏ tiền túi để sưu tập. Từ đàn tính, vật cúng tế đến những câu chuyện dân gian đều được ông Lai bỏ tiền ra mua lại, với mong muốn lưu giữ được những gì còn sót lại.
Buồn vì giới trẻ thờ ơ!
Đến nay, ông Lai đã cho ra hàng chục cuốn sách dày cộm, phục dựng được hàng trăm lễ hội, hàng nghìn bài hát cổ mà ông Lai vẫn còn hăng say lắm. Ông bảo, ở các dân tộc khác như Dao quần trắng cũng có những nét văn hóa đặc sắc nhưng chẳng có ai quan tâm phát triển. Ông Lai đành một mình đi sưu tập để giữ riêng cho họ, may ra sau này có thể trao lại cho ai đó tâm huyết.
Không chỉ gìn giữ, lưu truyền vốn văn hóa dân tộc qua những trang viết, bản thân Hoàng Tương Lai còn là một “quan làng” uy tín. “Quan làng” là người được nhà trai tin tưởng, nhờ cậy đi đón dâu nên để đối đáp với nhà gái suôn sẻ, thuận tai thì “quan làng” phải là người nhanh nhẹn, hoạt bát trong ứng khẩu; có chất giọng tốt, am hiểu phong tục tập quán. Không phải ai cũng có thể làm “quan làng” nhưng Hoàng Tương Lai thì luôn nhận được vinh dự ấy. Cũng bởi một lẽ ông yêu đến say mê những làn điệu dân ca của dân tộc mình và thể hiện chúng bằng cả tâm hồn, tình yêu.
Cũng nhờ chất giọng tốt và thể hiện rất có hồn các làn điệu dân tộc nên ông Lai đã đạt nhiều giải thưởng trong các cuộc thi, liên hoan dân ca. Năm 2007, ông đã giành giải C tại Liên hoan dân ca toàn quốc với tiết mục “Khảm hải”; giải B với bài Then “Roọng khoăn” tại Liên hoan hát Then, đàn tính toàn quốc.
Là một truyền nhân đồng thời cũng là nghệ nhân tầm cỡ đoạt nhiều giải thưởng về văn hóa – nghệ thuật Tày, tuy nhiên, mỗi lần đi sâu vào câu chuyện văn hóa dân tộc mình, ông Lai lại man mác buồn. Ông bảo: “Người ta cứ đổ lỗi cho cơ chế thị trường khiến bản sắc văn hóa bị pha trộn nhưng không phải thế. Tôi có thử nghiệm mở lớp miễn phí dạy hát dân ca Tày nhưng chỉ có người già đến học. Lớp trẻ không có ai mặn mà nữa. Tây Bắc nhẽ ra phải du dương điệu Then, tiếng khèn nhưng bây giờ toàn thấy nhạc trẻ lấn át”.
Thậm chí, ngôn ngữ của người Tày cũng bị pha trộn nhiều. Theo ông Lai, bây giờ rất nhiều người Tày bản địa không biết một chữ nào của dân tộc mình. Người biết thì trộn lẫn các ngôn ngữ Tày – Anh – Việt khiến người nghe không hiểu họ đang nói gì.
Nhiều gia đình vì đồng tiền bát gạo đã bán cả những cột nhà sàn cổ mà tổ tiên để lại. “Người dân tộc mất đi nhà sàn cũng đồng nghĩa mất đi nét văn hóa nền tảng. Cho nên để giữ được “kho báu” thiêng liêng của văn hóa thì đầu tiên phải có nếp nhà xưa giếng cũ như cái gương mà soi vào. Nhưng bây giờ, 2/3 nhà sàn đã bị bán hoặc phá dỡ để làm nhà xây gạch”, ông Lai cho biết.
Nói rồi, ông Lai ôm đàn tính hát câu dân ca Tày, lời hát bập bùng như ngọn lửa: “Còn trẻ chẳng học Cọi/Ít tuổi chẳng học chữ/Ngày chết lên thiên đình mới học/Cởi quần mặc váy mốc thay em...”.