Trường đại học mở ngành học mới: Bắt tay với thị trường lao động

Những năm gần đây, xuất hiện xu hướng các trường đại học thu hẹp ngành nghề đào tạo hiện có và mở rộng đào tạo sang một số ngành nghề mới. Xu hướng này đặt ra câu hỏi, mở ngành chỉ để tạo ra lợi thế tuyển sinh hay đó là sự bắt tay với thị trường lao động của các trường đại học trong xu thế cạnh tranh để tồn tại hiện nay? Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học xung quanh vấn đề này.

Bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học

Chỉ bền vững khi xuất phát từ nhu cầu thực tế

Lập tổ hợp hay mở ngành đào tạo mới đang là xu thế của rất nhiều trường ĐH, bao gồm cả các trường ĐH top trên và top dưới. Theo bà việc mở ngành đào tạo này xuất phát từ nhu cầu thực tế hay là đơn thuần là tạo ra lợi thế cạnh tranh trong công tác tuyển sinh giữa các trường?

Bà Nguyễn Thị Kim Phụng: Tôi có thể khẳng định việc mở ngành mới, trước hết phải xuất phát từ nhu cầu thực tế; bởi nếu chỉ để thu hút thí sinh trong vài ngành mới mà không xuất phát từ yêu cầu thực tế thì sẽ không bền vững.

Trong điều kiện thông tin truyền thông phát triển như hiện nay, nếu không thực chất, thực tế thì người học, xã hội sẽ sớm nhận ra và uy tín của trường bị ảnh hưởng, các ngành đào tạo khác của trường có thể cũng bị nghi ngờ. Vì vậy, mất sẽ lớn hơn được nên các trường không thể không xuất phát từ thực tế yêu cầu của cuộc sống và từ năng lực của chính mình để mở rộng ngành nghề đào tạo.

Cũng phải nói thêm, để tuyển sinh ngành mới, các trường phải làm nhiều việc từ đánh giá nhu cầu lao động của thị trường, tuyển dụng giáo viên, chuẩn bị cơ sở vật chất, đến xây dựng chương trình đào tạo, xác định vị trí việc làm chứ không chỉ đơn giản là tên ngành học.

Việc đầu tư mở ngành mới chứng tỏ các trường đã bắt đầu chuyển hướng từ đào tạo những gì mình có sang đào tạo những gì thị trường cần và nếu đảm bảo điều kiện chất lượng thì đó là tín hiệu tốt.

Ngoài ra, những yêu cầu về hội nhập, tham gia thị trường lao động khu vực và thế giới, quyền dịch chuyển lao động tự do cũng yêu cầu các trường phải thiết kế ngành đào tạo mới để đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của ngành nghề và công nghệ của nhà đầu tư từ các nước phát triển đầu tư vào Việt Nam, không để tình trạng lao động trong nước không được sử dụng ngay trên “sân nhà”.

Rõ ràng nếu việc mở ngành mới xuất phát từ nhu cầu thực tế thì được hưởng lợi nhiều nhất sẽ là sinh viên, vì đầu ra của các em đã phần nào đã được đảm bảo. Bà có thể phân tích kỹ hơn về lợi thế này?

Bà Nguyễn Thị Kim Phụng: Thông thường, ngành mới mà chưa có cơ sở nào hoặc mới có ít cơ sở đào tạo thì thường là ngành mà thị trường đang cần và sẽ tiếp tục cần, các nước phát triển đã thực hiện. Nhiều trường để đào tạo ngành mới, trường phải liên kết quốc tế, kết hợp với doanh nghiệp hoặc do doanh nghiệp chủ động đặt hàng đào tạo. Nếu các điều kiện đảm bảo chất lượng được thực hiện tốt thì sinh viên tốt nghiệp có cơ hội việc làm cao.

Tuy nhiên, cơ hội và tỷ lệ việc làm thực tế của sinh viên phụ thuộc vào trách nhiệm và điều kiện đầu tư của trường. Vì vậy, sinh viên nên chọn các trường có uy tín hoặc trường mới nhưng được đầu tư tốt, các điều kiện đảm bảo chất lượng tốt, có hợp tác quốc tế với các trường uy tín hoặc có hợp tác doanh nghiệp để đào tạo ngành mới. Ngoài ra, thí sinh cần tìm hiểu kỹ các thông tin khi đăng ký xét tuyển trên website của trường, Cổng thông tin thi tuyển sinh của Bộ GDĐT và thông tin về nhu cầu, cơ hội các ngành mới phương tiện truyền thông.

Đối với các trường, căn cứ vào yêu cầu của thị trường, vào sự phát triển của khoa học, công nghệ, yêu cầu của vị trí việc làm… để linh hoạt lựa chọn cách thức đáp ứng phù hợp: có thể mở đào tạo ngành mới, mở chuyên ngành phù hợp trong ngành đang đào tạo hoặc xây dựng các chương trình cập nhật kiến thức mới cho lao động đã được đào tạo ở những giai đoạn trước, thậm chí xây dựng chương trình đào tạo văn bằng thứ hai cho lao động muốn chuyển đổi nghề nghiệp… chứ không nhất thiết là mở ngành đào tạo mới.

Mỗi thí sinh cần học cách trở thành “người tiêu dùng thông thái”

Nhớ lại việc cách đây khoảng 7-8 năm, nhiều trường đại học ồ ạt mở các ngành như kế toán, quản trị kinh doanh, ngoại ngữ, văn phòng… dẫn tới sự bão hòa, thậm chí nhiều trường không chuyên đào tạo kinh tế cũng mở ngành học này dẫn tới tình trạng không ít trường phải đóng cửa ngành vì không tuyển sinh được. Thực tế này được các trường hiện nay và cơ quan quản lý nhìn nhận như thế nào?

Bà Nguyễn Thị Kim Phụng:  Thực tế có sự thừa thiếu cục bộ. Tuy nhiên, cần nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện.

Đó là, xu hướng đào tạo đa ngành để các ngành hỗ trợ nhau về chuyên môn (VD các nhóm: y, dược, hoá, lý, sinh… hoặc kinh tế, tài chính, ngân hàng, luật, quản trị…) đã khẳng định được ưu thế ở các nước phát triển, không nên đóng khung trong đào tạo đơn ngành.

Có thể thấy những ngành bị đóng cừa là ngành không tuyển sinh được, những ngành không còn phù hợp hoặc ngành không được trường đầu tư để giữ các điều kiện đảm bảo chất lượng tối thiểu… không phải chỉ là những ngành nêu trên hay ngành mới.

Thực tế này cũng đặt ra yêu cầu cho các trường khi mở ngành mới là cần nghiên cứu thị trường lao động trong vùng (sự dịch chuyển nguồn tuyển sinh và dịch chuyển lao động giữa các vùng chưa cao), số lượng và quy mô của ngành đang đào tạo để tránh dư thừa.

Xu thế hiện nay là giao quyền tự chủ cho các trường ĐH, các trường sau khi tự chủ sẽ được chủ động mở ngành mà không cần đến quyết định của Bộ GDĐT. Kết quả, từ chỗ mỗi năm cùng lắm chỉ được Bộ cho mở mới 2-3 ngành thì đến nay, chỉ trong gần 2 năm thực hiện tự chủ, có trường mở mới đến hàng chục ngành đào tạo, từ bậc ĐH cho đến trình độ đào tạo thạc sĩ. Bà nghĩ sao về điều này?

Bà Nguyễn Thị Kim Phụng: Chất lượng mở ngành hầu như không phụ thuộc vào số lượng, tốc độ ngành được mở mà phụ thuộc vào điều kiện chuẩn bị, đầu tư của mỗi trường. Nếu mở nhiều mà tốt thì hiệu quả càng tốt.

Để chuẩn bị mở rộng tự chủ đại học, Bộ GDĐT đã chuẩn bị xây dựng các chuẩn đảm bảo chất lượng khi mở ngành để các trường thực hiện; đã yêu cầu các trường phải công khai đề án mở ngành và các điều kiện đảm bảo chất lượng khác, việc làm của sinh viên tốt nghiệp sau khi học để người học và xã hội giám sát; đã quy định hệ thống chế tài xử lý vi phạm và sẽ thanh kiểm tra thường xuyên, xử lý vi phạm nghiêm minh.

Với mỗi người học, khi được quyền tự do học tập thì cũng cần học cách trở thành “người tiêu dùng thông thái”, có trách nhiệm tìm hiểu kỹ thông tin, yêu cầu nhà trường cung cấp đủ thông tin, chỉ lựa chọn trường đào tạo tốt, công khai, minh bạch các điều kiện đảm bảo chất lượng, việc làm sau khi học để đăng ký xét tuyển và cũng cần phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

Bên cạnh đó, rất cần các cơ quan thông tin truyền thông đồng hành cùng ngành giúp xã hội nhận diện được uy tín, chất lượng của các trường, tạo ra sự cạnh tranh để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.

Bà có nói tới chế tài xử lý vi phạm và sẽ thanh tra, kiểm tra thường xuyên. Vậy thực tế công tác này đã được Bộ GDĐT thực hiện như thế nào thời gian qua, thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Kim Phụng: Bộ GDĐT thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra việc tổ chức đào tạo, tuyển sinh của các cơ sở hoặc định kỳ rà soát điều kiện đảm bảo chất lượng đối với các ngành đang đào tạo ở các trường.

Từ năm 2010 đến nay Bộ đã dừng tuyển sinh 101 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ, 161 chuyên ngành thạc sĩ; thu hồi quyết định đào tạo đối với 57 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ, 32 ngành, chuyên ngành đào tạo thạc sĩ; cảnh cáo 207 ngành và dừng tuyển sinh đối với gần 100 ngành đào tạo trình độ đại học vì không duy trì điều kiện đảm bảo chất lượng trong quá trình thực hiện.

Hiện nay, Bộ đang xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý chất lượng trong toàn hệ thống để thuận tiện cho công tác rà soát các điều kiện đảm bảo chất lượng, cho xã hội và người học giám sát, từng bước tạo sự cạnh tranh nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục đại học.

Theo quy định của Bộ GDĐT, các trường đủ điều kiện mở ngành trình độ đại học phải đảm bảo các điều kiện: Có đội ngũ giảng viên cơ hữu đảm nhận giảng dạy tối thiểu 70% khối lượng của chương trình đào tạo, trong đó có ít nhất 01 giảng viên có trình độ tiến sĩ và 03 giảng viên có trình độ thạc sĩ đúng ngành đăng ký; Có chương trình đào tạo; Có cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm đáp ứng yêu cầu của ngành đào tạo; Có đơn vị quản lý chuyên trách; Phù hợp với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của ngành, địa phương, vùng và quốc gia...

Ngoài ra, các cơ sở đào tạo phải phải trình bày luận cứ khoa học về ngành đào tạo mới được hội đồng khoa học của trường thông qua, cung cấp được các minh chứng thực tiễn và kinh nghiệm đào tạo của một số nước trên thế giới, kèm theo chương trình đào tạo tham khảo của ít nhất 2 trường đại học đã được kiểm định ở nước ngoài.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đang chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện các quy định này trong thời gian tới, phù hợp với điểu kiện tự chủ đại học.

Theo Bộ GD&ĐT

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ