Nguyên nhân chính là do sự tồn tại bất bình đẳng giới và tâm lý ưa thích con trai của một bộ phận người dân.
Thừa 1,4 triệu nam giới trong năm 2025
Theo dự báo gần nhất của Tổng cục Thống kê, đến năm 2025, Việt Nam thừa 1,4 triệu nam giới trong độ tuổi kết hôn. Áp lực sinh được con trai để nối dõi tông đường đang đè nặng lên tâm lý nhiều gia đình. Đây là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra trầm cảm sau sinh ở phụ nữ.
Trung bình, cứ 4 phụ nữ sau sinh thì có 1 phụ nữ trầm cảm. Tình trạng trầm cảm gấp 2 lần ở lần mang thai thứ hai trong trường hợp gia đình có con gái trước đó.
Số phụ nữ sinh con gái một bề có nguy cơ bị chồng bạo hành trong quá trình mang thai gồm: Bạo hành thể xác, bạo hành tinh thần gấp 2 lần so phụ nữ có con trai. Có 6,2% phụ nữ bị chồng bạo hành sinh non và 4,9% sinh con nhẹ cân. Hơn 1/3 phụ nữ mang thai bị bạo hành, nhưng có một số trường hợp không thông báo cho người khác biết.
Phụ nữ sinh con gái một bề có nguy cơ bị chồng bạo hành trong quá trình mang thai gấp 2 lần so phụ nữ có con trai.
Bạo lực tinh thần là hình thức phổ biến nhất đối với phụ nữ mang thai, tiếp theo là bạo lực tình dục và bạo lực thể xác.
Điều đó cho thấy, trẻ em gái phải đứng trước những vấn đề xấu trong việc lập gia đình nếu tư tưởng trọng nam hơn nữ không được nhìn nhận theo chiều hướng bình đẳng giới hơn.
Tiến sĩ Vũ Duy Hưng - Chi cục trưởng Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Hà Nội cho biết, tại Việt Nam tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đang là một thách thức lớn đối với công tác dân số. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do sự tồn tại bất bình đẳng giới và tâm lý ưa thích con trai của một bộ phận người dân.
Theo ông Vũ Duy Hưng, bất bình đẳng giới là nguyên nhân căn bản làm gia tăng tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Ngược lại, mất cân bằng giới tính sẽ làm sâu sắc thêm vấn đề bất bình đẳng giới. Trong khi đó, các em gái vị thành niên chính là nhóm dễ bị tổn thương nhất. Do vậy, bảo vệ quyền của các em gái hôm nay là bảo đảm một tương lai công bằng hơn.
Biểu hiện của bất bình đẳng giới
Bộ LĐ-TB&XH vừa ban hành quyết định phê duyệt kế hoạch triển khai tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2023. Chủ đề tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2023 là “Đảm bảo an sinh xã hội, tăng cường quyền năng cho phụ nữ và trẻ em gái nhằm thực hiện bình đẳng giới và xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới.
Theo Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), bạo lực dựa trên cơ sở giới là một biểu hiện của bất bình đẳng giới được duy trì bởi cấu trúc quyền lực và mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ. Tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ của Việt Nam vẫn ở mức cao và chưa được giải quyết hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu quốc gia năm 2019 về bạo lực đối với phụ nữ cho thấy, gần 2/3 phụ nữ trong độ tuổi từ 15 - 64 từng trải qua ít nhất một hình thức bạo lực về thể chất, tình dục, tinh thần (cảm xúc và hành vi kiểm soát) và/hoặc bạo lực kinh tế bởi chồng/bạn tình ở một số thời điểm trong cuộc đời và 31,6% trong 12 tháng qua.
Bạo lực phụ nữ vẫn bị che giấu khi hơn 90% không tìm kiếm sự trợ giúp từ các dịch vụ công. Trong khi đó, một nửa số phụ nữ bị bạo lực không nói với ai về tình trạng của mình.
Bạo lực phụ nữ không chỉ gây hậu quả nặng nề cho bản thân nạn nhân, mà còn cho nền kinh tế quốc dân. Tổn thất năng suất lao động quốc gia do bạo lực phụ nữ tương đương 1,81% GDP năm 2018 ở Việt Nam. Con số này được cho là một tổn thất không nhỏ đối với nền kinh tế quốc dân.
“Lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới được xác định là nguyên nhân chính dẫn đến mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam. Yếu tố chính thúc đẩy hành vi lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới của nhiều cặp vợ chồng là tâm lý ưa thích có con trai, vốn bắt nguồn từ văn hóa truyền thống và hệ thống gia đình phụ hệ”, UNFPA cho biết.
Theo cơ quan này, tâm lý ưa thích có con trai là biểu hiện mạnh mẽ của bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử đối với nữ. Tâm lý ưa thích có con trai, sự phổ biến của công nghệ lựa chọn giới tính, mức sinh thấp và hạn chế đã tạo điều kiện văn hóa - xã hội cho hành vi lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới thiên về con trai, tăng tình trạng mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh lên 111,5 bé trai/100 bé gái vào năm 2019, cao thứ ba châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ.
Ở một số tỉnh, tỷ số giới tính khi sinh mất cân bằng này thậm chí còn vượt quá 126. Khi so sánh với tỷ số giới tính khi sinh tự nhiên (105 bé trai/100 bé gái), thực trạng tại Việt Nam cho thấy mức thiếu hụt trẻ em gái năm 2019 là 45.900 trẻ. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ gây ra tác động về nhân khẩu học.
Ví dụ, đối với nhóm tuổi trưởng thành từ 15 - 49 tuổi, số lượng nam giới sẽ nhiều hơn nữ 1,5 triệu người vào năm 2034. Con số này ước tính sẽ tiếp tục tăng lên gần 2,5 triệu nam giới dư thừa vào năm 2059 nếu tỷ số giới tính khi sinh không giảm. Đó là xu hướng mà các nhà nhân khẩu học thường gọi là “sức ép hôn nhân”. Trong đó, nam giới có xu hướng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm kiếm bạn đời.
Mất cân bằng giới tính khi sinh không chỉ ảnh hưởng đến nam giới, mà còn đến nữ giới. Theo UNFPA, số lượng phụ nữ giảm không có nghĩa là giá trị của phụ nữ và trẻ em gái tăng lên. Ngược lại, nỗ lực tìm kiếm bạn tình có thể khiến nạn tảo hôn, buôn bán phụ nữ và trẻ em gái, bạo lực đối với phụ nữ và mại dâm tăng đáng kể.