Nhỏ gọn, dễ di chuyển
Theo ông Trần Tuấn, năm nào tỉnh Thừa Thiên - Huế nói riêng và các địa phương khác cũng phải lên kế hoạch vớt bèo tây. Năm 2008, tỉnh đã chi ngân sách khoảng 1,2 tỷ đồng cho huyện Phú Vang, Hương Thủy và thành phố Huế để vớt bèo, rác trên các sông, rạch nhằm khơi thông dòng chảy trước mùa mưa lũ, hạn chế việc sập cầu cống do bèo, rác vướng chân cầu.
Năm 2016, để phục vụ cho Festival Huế 2016, UBND tỉnh đã chi hơn 9 tỷ đồng từ ngân sách để huy động toàn xã hội giải quyết vấn nạn bèo tây phát triển mạnh ở các sông, hồ… Giá để thu vớt thời điểm đó khoảng 3.000 đồng/m2, nhưng hiện nay, giá đã lên tới khoảng 7.000 đồng/m2.
Mặc dù máy móc có thể hỗ trợ con người trong việc giải quyết “vấn nạn bèo tây” nhưng ngặt một nỗi, những chiếc máy này đã có trên thế giới nhưng chưa nhiều. Các máy vớt bèo dù sản xuất trong nước hay nhập khẩu đều khá cồng kềnh, nên chỉ hoạt động được vùng ao hồ rộng. Ở các vùng kênh rạch nhỏ, máy móc không vào được, nên chủ yếu thực hiện bằng tay, năng suất và chất lượng thấp. Trong khi đó giá thành máy cao, hàng tỷ đồng/chiếc.
Bài toán ông Tuấn đặt ra là thiết kế máy nhỏ gọn, dễ dàng di chuyển, hút bèo mà không giới hạn số lượng. Để đạt được mục đích này, chiếc máy vớt rác và bèo tây mà ông thiết kế hướng đến việc có thể cuốn, hút, vận chuyển rác, bèo tây từ giữa dòng chảy lên bờ bằng bánh lồng kết hợp vít tải. Hệ thống này được ông Trần Tuấn dành nhiều năm nghiên cứu chế tạo để các bộ phận kết hợp nhịp nhàng, liên hoàn.
Máy được thiết kế gồm 4 bộ phận là thân máy, trục vít tải, bộ phận truyền động và bộ phận vớt rác, bèo trên mặt nước. Thân máy được làm bằng thép tấm dày 2 - 3mm, dài 4 - 6m, đường kính từ 30 - 40cm, đầu tiếp xúc với mặt nước được chế tác thành phễu chứa để gom bèo mà bánh lồng vớt vào phễu. Đầu ngược lại là cửa thoát ra của rác, bèo tây. Phần giữa thân máy kết cấu dạng lỗ hổng hoặc khe hở để thoát nước trong quá trình máy vận chuyển rác, bèo tây về cửa ra.
Để đưa bèo, rác về phía bánh lồng, xung quanh trục máy được gắn các lưỡi vớt bèo theo dạng xoắn ốc, đường kính của các lưỡi vớt bèo này khoảng 20 - 30cm, cách nhau 20cm, có chiều thuận với chiều quay của bánh đà máy nổ động cơ diezel D15.
Trong quá trình di chuyển, rác và bèo tây bị các lưỡi xoắn của trục vít tải cắt nhỏ đồng thời, nước cũng thoát ra tại các khe hở được thiết kế ở giữa thân. Đến lúc đó, tại cửa thoát nguyên liệu chỉ còn rác thải và bèo tây.
Biến bèo tây thành phân vi sinh
Ông Trần Tuấn cho biết, điểm khác biệt của chiếc máy do ông sáng chế là máy được đặt trên bờ, phần phễu ra thu gom bèo cũng nằm trên bờ, không cần đặt máy trên thuyền hay xà lan mới có thể vớt bèo quanh sông, nên không phụ thuộc vào kích thước của bồn chứa. Máy vận hành theo nguyên lý lồng quay và vít tải là khác biệt lớn nhất so thiết bị cùng loại khác.
Theo đó, máy tự động vớt, cuốn hút và vận chuyển rác, bèo tây trong cùng một quá trình vận hành, đến đầu ra sản phẩm là bèo, rác đều đã bị cắt nhỏ, dễ thu gom. Trong khi đó, máy dễ gia công, rất cơ động và chi phí sản xuất máy rất thấp, nên giá thành của nó cũng rất thấp, bằng 1/20 - 1/30 giá trị của máy cùng công suất được sản xuất trong nước.
Dự kiến máy sẽ được bán trên thị trường vào năm 2022 do ông đang tiếp tục hoàn thiện bộ phận thuyền máy làm nhiệm vụ xé bèo, giảm gánh nặng cho hệ thống bánh lồng và tay vớt trong quá trình hoạt động. “Thông thường bèo lâu năm thường gắn kết với nhau rất chặt.
Vì thế, cần phải có thuyền máy đi trước làm nhiệm vụ xé bèo thành những mảnh nhỏ”, ông Trần Tuấn nói. Theo tiết lộ của ông, bộ phận này đã hoàn thiện được 80% và được thiết kế với chiếc thuyền nhỏ có gắn động cơ của như thuyền đánh cá, có số tiến, số lùi và hoạt động như một chiếc máy nổ.
Theo mô tả của ông Trần Tuấn, phần đầu giống như chiếc máy cày có thể nhấc lên, hạ xuống có thể xúc ủi. Người lái có thể nâng mảng bèo lên rồi lùi thuyền để dứt bèo hoặc cài số tiến để nâng và xúc bèo vào bờ.
“Bèo sau khi được đưa lên bờ được ép nước, cắt nhỏ và có thể mang đi ủ thành phần. Những năm tháng còn công tác tại Sở KH&CN Thừa Thiên - Huế, chúng tôi đã có hợp tác với Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam để thử nghiệm chế phẩm vi sinh để ủ bèo tây thành phân bón hữu cơ cho cây trồng.
Khi làm dự án này, tôi đã nghĩ tới đầu ra xử lý cho bèo, giúp cây bèo từ rác thải trở thành sản phẩm hữu ích, như vậy chúng tôi cũng không mất công xử lý bèo sau khi vớt”, ông Trần Tuấn cho hay.
Theo tính toán, công suất hoạt động của máy là 50m3/giờ. Hiện với giá vớt bèo trên sông khoảng 7.000 đồng/m2, ông cho rằng khách hàng tiềm năng sẽ là các huyện, tỉnh hoặc công ty vệ sinh môi trường.
Dự kiến, ông Tuấn sẽ bán chiếc máy với giá từ 150 – 200 triệu đồng. Hiện tại, dù chưa quảng bá nhưng ông đã may mắn nhận được những đơn đặt hàng sản xuất máy của khách hàng.
Đó là tín hiệu đầu tiên để nhà sáng chế này tin rằng, sẽ có thêm rất nhiều khách hàng tiềm năng khác biết đến sự hữu dụng của chiếc máy và góp phần giải quyết vấn đề mà họ gặp phải trong quá trình bảo vệ cảnh quan môi trường và lưu thông đường thủy.