Thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững

0:00 / 0:00
0:00

GD&TĐ - Báo cáo Nghèo đa chiều Việt Nam 2021 cho thấy, trong thập kỷ qua, thành tựu nghèo ở Việt Nam đã rất ấn tượn.

Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo tăng từ 5,2% (năm 2020) lên 9,35% (năm 2022). Ảnh minh họa, nguồn Internet.
Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo tăng từ 5,2% (năm 2020) lên 9,35% (năm 2022). Ảnh minh họa, nguồn Internet.

Tiên phong trong việc áp dụng chuẩn nghèo đa chiều

Với chuẩn nghèo đa chiều mới (được phê duyệt năm 2021) tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo tăng từ 5,2% (năm 2020) lên 9,35% (năm 2022), đồng nghĩa với thêm 10 triệu người được hưởng lợi từ các chính sách và chương trình mục tiêu của Chính phủ về bảo trợ xã hội và giảm nghèo trong giai đoạn 2021-2025.

Điều này đã được chia sẻ tại Lễ công bố Báo cáo Nghèo đa chiều 2021 tại Hà Nội.

Báo cáo do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), Ủy ban Dân tộc (UBDT), Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (TCTK-MPI) phối hợp thực hiện, với sự hỗ trợ của Ngoại giao và Thương mại Australia (DFAT), và hợp tác kỹ thuật từ Trung tâm Phân tích và Dự báo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (CAF / VASS).

Với việc áp dụng chuẩn nghèo đa chiều quốc gia vào năm 2015, Việt Nam là quốc gia tiên phong trong Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong việc áp dụng chuẩn nghèo đa chiều làm công cụ xác định mục tiêu, theo dõi tình hình nghèo đói và xây dựng chính sách.

Tuy nhiên, tình trạng nghèo tồn tại trong các nhóm dân tộc thiểu số và dân cư các vùng ven biển, hải đảo là một thách thức đối với Việt Nam trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs). Đại dịch COVID-19 khiến cho nỗ lực xóa bỏ nghèo đói gặp nhiều khó khăn.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho biết: “Việc áp dụng phương pháp tiếp cận ‘nghèo đa chiều’ đã hỗ trợ rất lớn trong xây dựng, triển khai và đo lường sự thành công của chính sách dân tộc trong giai đoạn vừa qua. Ủy ban Dân tộc kỳ vọng báo cáo “Nghèo đa chiều Việt Nam 2021” sẽ chỉ ra được những tồn tại căn bản, các nguyên nhân chính của Nghèo đa chiều vùng DTTS&MN tại Việt Nam, từ đó đề xuất ra các phương hướng, biện pháp, công cụ hữu hiệu hỗ trợ Chính phủ Việt Nam.

Đặc biệt là Ủy ban Dân tộc, các bộ ngành liên quan và các tỉnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thực hiện thành công Đề án tổng thể và chương trình mục tiêu quốc gia phát triển phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 và các chương trình, chính sách dân tộc khác.”

Tại lễ công bố báo cáo chia sẻ những phát hiện chính và khuyến nghị quan trọng để đạt được mục tiêu giảm nghèo nhanh ở mọi khía cạnh và mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam, trong đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện hơn nữa hai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi và giảm nghèo.

Khách mời chia sẻ về báo cáo.

Khách mời chia sẻ về báo cáo.

Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm liên tục và đáng kể

Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Nguyễn Bá Hoan chia sẻ: “Báo cáo cung cấp những phân tích chi tiết về việc làm năng suất, dịch vụ xã hội và an sinh xã hội cho mọi người và đây được coi như giải pháp hữu hiệu để duy trì thành tựu giảm nghèo đa chiều và đổi mới hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam, khuyến nghị duy trì tốc độ giảm nghèo nhanh ở mọi khía cạnh và mọi nơi trong đó có các giải pháp hoàn thiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trong giai đoạn tới”.

Báo cáo Nghèo đa chiều Việt Nam 2021 cho thấy, trong thập kỷ qua, thành tựu nghèo ở Việt Nam đã rất ấn tượng cho dù được đo lường bởi bất kể phương pháp nào. Đáng chú ý, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm liên tục và đáng kể, từ 18,1% năm 2012 xuống 10,9% năm 2016 và 4,4% năm 2020. Hơn nữa, trong khi 1/10 người nghèo về thu nhập trong năm 2014, nhưng một nửa trong số họ đã thoát nghèo bền vững trong thời kỳ trước đại dịch.

Nhìn chung, Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong việc giảm nghèo đa chiều nhờ tăng việc làm năng suất cao; Cải thiện các dịch vụ xã hội; và Mở rộng hệ thống bảo trợ xã hội.

Song, mặc dù có những tiến bộ đáng kể về tổng thể, nhưng tính dễ bị thương và tình trạng bất bình đẳng vẫn đang là những thách thức đáng kể. Tình trạng nghèo về thu nhập thoáng qua đã tăng lên đáng kể trong đại dịch Covid-19, đặc biệt đối với người di cư và nhóm dân tộc thiểu số.

Tỷ lệ nghèo đói giảm trên diện rộng, nhưng vẫn còn cao ở một số nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Chẳng hạn, tỷ lệ nghèo đa chiều của dân tộc H’Mông vẫn ở mức cao 45,1% vào năm 2020, mặc dù đã giảm đáng kể trong giai đoạn 2012-2020. Ngoài ra, có tới 1/5 người Khmer, Dao và các đồng bào dân tộc thiểu số khác thuộc diện nghèo đa chiều trong năm 2020.

Bên cạnh đó, báo cáo cũng cho thấy, chuyển đổi kỹ thuật số trong lĩnh vực giáo dục đang gia tăng, nhưng bất bình đẳng trong tiếp cận công nghệ và thiết bị vẫn là một thách thức. Sự phân chia kỹ thuật số càng sâu hơn trong thời kỳ Covid-19. Khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế đã được cải thiện, nhưng vẫn còn chênh lệch, đặc biệt là giữa y tế tuyến trên và y tế cơ sở. Về bảo trợ xã hội, các chương trình hỗ trợ tiền mặt có phạm vi bao phủ hạn chế và lợi ích thấp. Người di cư không được nhận trợ cấp.

Nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam, Trợ lý Tổng thư ký Liên hợp quốc kiêm giám đốc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của UNDP, bà Kanni Wignaraja nêu rõ năm khuyến nghị chính cho nỗ lực tăng tốc giảm nghèo ở mọi khía cạnh, bao gồm các nỗ lực đầu tư và chính sách cần thiết để khuyến khích và cải thiện việc làm năng suất cao;

Cải thiện việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng và nâng cao khả năng tiếp cận đối với cộng đồng ở vùng sâu vùng xa; mở rộng bảo trợ xã hội, không phải là tạm thời để ứng phó với các cuộc khủng hoảng, mà như một hệ thống thường trực linh hoạt và mở rộng hơn; mở rộng việc sử dụng số hóa trong việc thực hiện, trong kinh tế tri thức, nâng cao hiệu quả và tính minh bạch; thúc đẩy các giải pháp sáng tạo và mở rộng quy mô đối với các thí điểm thành công vì và do các cộng đồng dân tộc thực hiện.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Minh họa/INT

Tham vọng đi vào lịch sử

GD&TĐ - Bầu cử Quốc hội ở Ấn Độ luôn là sự kiện không nơi nào trên thế giới có thể sánh được về quy mô và thời gian.