Ngôn từ là chất liệu nền tảng làm nên thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học, nó mang trong mình một sức hấp dẫn đặc biệt nhờ khả năng gợi cảm, giàu hình ảnh và giàu sức liên tưởng.
Chính qua việc lựa chọn, tổ chức và sáng tạo ngôn ngữ, nhà văn không chỉ tái hiện hiện thực mà còn kiến tạo một hiện thực nghệ thuật – nơi cái đẹp, cái sâu sắc và cái chân thực được thăng hoa.
Tính nghệ thuật
Một trong những yếu tố cốt lõi làm nên sức hấp dẫn của ngôn từ văn học chính là tính nghệ thuật. Ngôn từ trong văn học không tồn tại như một công cụ thuần túy để truyền đạt thông tin, mà được nhà văn nâng lên thành một phương tiện biểu hiện thẩm mỹ. Tính nghệ thuật thể hiện ở cách lựa chọn từ ngữ tinh luyện, sắp xếp cú pháp linh hoạt, cũng như khả năng tạo ra nhịp điệu, hình ảnh và biểu cảm độc đáo trong mỗi câu văn, dòng thơ.
Khi sử dụng ngôn ngữ như một nghệ sĩ sử dụng màu sắc và đường nét, nhà văn biến mỗi câu chữ thành một phần của bức tranh toàn cảnh mang chiều sâu cảm xúc và tư tưởng. Chính trong quá trình ấy, ngôn từ không còn là “cái vỏ” của ý nghĩa mà trở thành một phần của chính ý nghĩa đó - nơi nghệ thuật ngôn ngữ và tư tưởng hòa quyện, cộng hưởng với nhau.
Tính nghệ thuật còn thể hiện ở sự cách tân, sáng tạo - khi người viết vượt ra khỏi những lối biểu đạt quen thuộc để làm mới ngôn ngữ, làm phong phú thêm khả năng biểu đạt của văn học. Nhờ tính nghệ thuật ấy, ngôn từ văn học không chỉ truyền cảm mà còn khơi gợi cái đẹp, dẫn dắt người đọc đi vào một thế giới cảm thụ đầy rung động và khám phá.
Các yếu tố âm thanh, từ ngữ, kiểu câu trong văn bản thường được lựa chọn kỹ lưỡng, trau chuốt, sắp xếp theo một trật tự đặc biệt để tạo nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn. Chẳng hạn như một từ bình thường nhưng được dùng đúng chỗ sẽ giúp người đọc tưởng tượng và cảm thụ một cách đúng đắn và hợp lý về đối tượng được miêu tả: con đường vươn ra, nhà sàn chênh vênh, mắt hau háu...; ngược lại chỉ một từ dùng sai sẽ làm cho câu văn, câu thơ trở nên ngớ ngẩn hoặc vô nghĩa.
Bác Hồ từng phê phán cách viết: no cơm áo, cười thênh thênh... Hay như cách dùng từ của Nguyễn Du rất đặc sắc, có giá trị biểu hiện, khi đã “giết chết” các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ.
Ví dụ cái vô học của Mã Giám Sinh “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”; gian manh của Sở Khanh “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”; tầm thường, ti tiện của Hồ Tôn Hiến “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”... Hoặc có thể dẫn ra đây hai câu thơ của Bích Khê với những từ ngữ mang thanh bằng gợi cảm giác êm ái, tĩnh lặng trong không gian buổi chiều và trong lòng người:
Chiều đi trên đồi êm như tơ
Chiều đi trong lòng êm như mơ.
Như vậy ở đây, cách sử dụng từ ngữ, vần nhịp, thanh điệu... đã tạo thành tính nghệ thuật. Vẻ đẹp, sức hấp dẫn của hình tượng đã làm nên tính thẩm mỹ.
Khả năng sáng tạo hình tượng
Trong văn học, hình tượng không chỉ là nhân vật, cảnh vật hay sự việc, mà còn là những biểu tượng nghệ thuật mang tính khái quát cao, chứa đựng tư tưởng, cảm xúc và thế giới quan của tác giả. Chính ngôn từ là phương tiện chủ yếu để nhà văn kiến tạo nên những hình tượng ấy - thông qua việc khắc họa chi tiết, mô tả cảm giác, tạo dựng không khí và diễn tả nội tâm.
Ngôn từ văn học không phản ánh hiện thực một cách đơn thuần mà tái hiện nó bằng lăng kính nghệ thuật, khiến cho hình ảnh con người, thiên nhiên hay sự kiện trong tác phẩm trở nên sống động, gợi cảm và giàu sức liên tưởng.
Một hình tượng văn học hấp dẫn thường được xây dựng từ sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ cụ thể và ngôn ngữ biểu tượng, giữa cái hữu hình và cái ẩn dụ, giữa hiện thực và tưởng tượng. Nhờ đó, người đọc không chỉ tiếp nhận thông tin mà còn cảm nhận được vẻ đẹp đa chiều của hình tượng, từ đó đồng cảm, suy ngẫm và chiêm nghiệm sâu sắc hơn. Chính khả năng sáng tạo hình tượng thông qua ngôn từ đã giúp văn học vượt qua ranh giới của sự mô tả, để chạm đến chiều sâu tâm linh và nhân bản trong mỗi con người.
Bằng những câu văn nhẹ nhàng, giàu chất nhạc và đầy tính tạo hình, Thạch Lam đã dựng nên một hình tượng phố huyện vừa cụ thể, vừa biểu cảm. Những câu như: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru…”, “Phương tây đỏ rực như lửa cháy…” không chỉ miêu tả một buổi chiều tà mà còn gợi ra cảm giác mênh mang, thê lương, như một bản nhạc buồn nhẹ nhàng rót vào lòng người.
Ngôn từ ở đây còn gợi nên một thế giới tinh thần u uẩn, nơi những kiếp người nhỏ bé như chị em Liên sống trong quẩn quanh và mòn mỏi. Hình tượng phố huyện vì thế trở thành biểu tượng của sự tù túng, đơn điệu trong đời sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, đồng thời phản chiếu niềm xót thương, sự tỉnh thức và khao khát vượt thoát của con người. Sự hấp dẫn của hình tượng này chính là nhờ khả năng gợi cảm rất tinh tế của ngôn từ – vừa cụ thể, vừa chất chứa tầng sâu cảm xúc và tư tưởng.
Quang Dũng đã tạo nên một hình tượng người lính mang vẻ đẹp vừa dữ dội, bi tráng, vừa hào hoa, lãng mạn – tất cả được dồn nén trong những câu thơ giàu tính tạo hình:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Ngôn từ ở đây không chỉ khắc họa thực tế khắc nghiệt (thiếu thốn thuốc men, gian khổ nơi rừng thiêng nước độc) mà còn nâng tầm người lính thành một biểu tượng. Cụm từ “dữ oai hùm” gợi hình ảnh mạnh mẽ, quyết liệt, trong khi “không mọc tóc” lại gợi một hiện thực xót xa, được diễn tả bằng giọng điệu điềm nhiên, không bi lụy.
Chính sự tương phản trong cách dùng từ đã tạo nên hiệu ứng thẩm mỹ đặc biệt – người lính hiện lên vừa hiện thực vừa lý tưởng hóa. Qua đó, Quang Dũng đã thành công trong việc khơi dậy lòng ngưỡng mộ, niềm tự hào và cả nỗi xúc động nơi người đọc. Ngôn từ không còn là phương tiện ghi chép mà trở thành công cụ tạo hình mang sức mạnh biểu tượng và cảm xúc mãnh liệt.
Tính biểu tượng và đa nghĩa
Trong văn chương, ngôn từ không chỉ dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng mà còn mang theo những lớp nghĩa sâu xa, giàu sức gợi, vượt lên trên nghĩa đen thông thường. Một hình ảnh, chi tiết, cách diễn đạt trong văn học có thể đồng thời gợi lên nhiều tầng ý nghĩa - từ cụ thể đến trừu tượng, từ cảm xúc đến tư tưởng.
Chính tính chất đa tầng này khiến cho việc đọc và cảm nhận văn học không bao giờ là một hành trình đơn tuyến, mà luôn mở ra những khả năng diễn giải mới, phụ thuộc vào cảm quan thẩm mỹ, vốn sống và chiều sâu tư duy của người tiếp nhận.
Ngôn từ trở thành phương tiện để nhà văn gửi gắm các thông điệp nghệ thuật một cách hàm súc, kín đáo, đòi hỏi người đọc phải suy ngẫm, liên tưởng và đối thoại với văn bản. Tính biểu tượng và đa nghĩa giúp ngôn từ văn học vượt khỏi giới hạn của tính chất nhất thời, tạo nên giá trị bền vững cho tác phẩm, đồng thời khẳng định vai trò trung tâm của người đọc trong việc kiến tạo ý nghĩa.
Ngôn từ văn học do yêu cầu sáng tạo hình tượng mà có tính biểu tượng và đa nghĩa. Biểu tượng trong văn học là những hình ảnh cụ thể, sinh động, gợi cảm nhưng lại mang ý nghĩa quy ước của nhà văn hoặc của người đọc.
Các từ ngữ thông thường như dòng sông, sóng, đất, cát, hoa, cỏ, nắng, gió, mưa, bão... khi đi vào văn bản văn học đều có thể trở thành những biểu tượng nghệ thuật mang nội dung cảm xúc và khái quát.
Ví như xây dựng hình ảnh người mẹ như là biểu tượng cho Tổ quốc, đất nước – một biểu tượng vừa gần gũi, thân thương, biết bao kỳ vĩ, đó là tài năng và sâu xa hơn, đó là tình cảm gắn bó máu thịt, là tình yêu thiết tha, sâu sắc nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mĩ đối với quê hương đất nước.
Mẹ Việt Nam ơi!
Đêm nay con về gối đầu trên cánh tay của mẹ
Ôi cánh tay rắn rỏi, dịu hiền
Lấm láp bùn lầy nhưng ấm áp niềm tin
Đó là hai cánh đê sông Hồng của mẹ.
(Nguyễn Khoa Điềm)
Như trong truyện ngắn “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu tác giả bằng ngôn từ văn học đã xây dựng hình tượng là chiếc gương soi mặt và bức tranh của ông thợ cắt tóc (người chiến sĩ năm xưa) chính là biểu tượng độc đáo cho tác phẩm. Như vậy tính biểu tượng làm cho ngôn từ văn học có khả năng biểu đạt sâu, rộng, phong phú.
Do tính biểu tượng mà ngôn từ văn học thường có tính đa nghĩa, biểu hiện những ý ở ngoài lời. GS Trần Đình Sử trong bài “Tính mơ hồ đa nghĩa của văn học” khẳng định: Tính mơ hồ, đa nghĩa của nghệ thuật bắt nguồn từ chỗ nghệ thuật được viết ra để cho người đọc đồng sáng tạo…
Mà đã đồng sáng tạo thì tác phẩm không thể đồng nhất vào chính nó. Nó nhòe đi, lớn lên, phong phú thêm, hoặc biến dạng bất ngờ do cảm nhận sâu, nông của người đọc. Khi ta nắm bắt một tư tưởng tác phẩm cũng là lúc tác phẩm đã nhòe đi, mơ hồ đi vì ta chỉ nắm được một phần của nó.
Trong câu “Người đi? ừ nhỉ, người đi thực! Mẹ thà coi như chiếc lá bay/ Chị thà coi như là hạt bụi/ Em thà coi như hơi rượu say” (Tống biệt hành - Thâm Tâm), khuyết đối tượng được “thà coi”, làm cho người đọc lý giải, cảm nhận ở nhiều hướng khác nhau. Từ việc lược chủ thể đã chuyển sang đa chủ thể.
Hay như trong câu “Đưa người ta không đưa qua sông/ Sao có tiếng sóng ở trong lòng?/Bóng chiều không thắm không vàng vọt/ Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?” (Tống biệt hành - Thâm Tâm). Sự đa nghĩa trong những câu thơ trên tạo ra những trường liên tưởng ở người đọc.
Từ “sao” được đặt ở đầu câu không phải để diễn tả có hay không có “tiếng sóng” và “hoàng hôn” mà hỏi để khẳng định nỗi buồn ngập tràn trong lòng người đưa tiễn và người ở lại.
Ngôn từ trong văn học không chỉ là phương tiện chuyển tải nội dung mà chính là nơi khởi sinh vẻ đẹp nghệ thuật, nơi hội tụ tư tưởng, cảm xúc và cái nhìn thẩm mỹ của nhà văn. Từ tính nghệ thuật trong cách tổ chức lời văn, khả năng sáng tạo hình tượng giàu sức gợi, đến chiều sâu biểu tượng và đa nghĩa trong từng câu chữ - tất cả làm nên sức hấp dẫn riêng biệt và không thể thay thế của ngôn từ văn học.
Chính sự mê hoặc này đã khiến người đọc tìm đến văn chương không chỉ để hiểu mà còn để cảm, để sống lại những khoảnh khắc của cái đẹp và cái thật được chưng cất qua ngôn ngữ. Nghiên cứu về ngôn từ văn học, vì thế, không chỉ giúp ta hiểu rõ hơn kỹ thuật viết và phong cách nghệ thuật của nhà văn, mà còn mở ra khả năng chiêm nghiệm về ngôn ngữ như một thế giới sống động mang tính nhân văn sâu sắc.
Trong bối cảnh hiện đại, khi các hình thức truyền đạt ngày càng ngắn gọn và trực tiếp, việc gìn giữ và khám phá chiều sâu của ngôn từ văn học lại càng trở nên cần thiết - như một cách nuôi dưỡng tâm hồn, khơi dậy khả năng cảm thụ tinh tế và khẳng định giá trị bền vững của văn chương trong đời sống con người.
Ngôn từ văn học không chỉ đơn thuần là công cụ biểu đạt mà còn là phương tiện sáng tạo, là nơi kết tinh tư tưởng, cảm xúc và cá tính nghệ thuật của tác giả. Nghiên cứu sức hấp dẫn của ngôn từ văn học chính là đi vào chiều sâu của nghệ thuật ngôn ngữ, để khám phá cách mà văn học chạm đến trái tim con người và để lại dấu ấn lâu dài trong tâm hồn người đọc.