Những hạn chế của Luật Giáo dục đại học 2012
Một điều cần lưu ý là thuật ngữ “đại học” được dùng trong nhiều các tên gọi như: Giáo dục đại học, đại học, trường đại học, bằng tốt nghiệp đại học nhưng lại với nghĩa hoàn toàn khác nhau, việc dịch sang tiếng nước ngoài cũng gặp khó khăn.
PGS. Hoàng Minh Sơn - cho rằng, hệ thống tên gọi các trình độ đào tạo và văn bằng thiếu tính nhất quán về ngôn ngữ và chưa hội nhập quốc tế. Cụ thể, Luật quy định “trình độ cao đẳng”, “trình độ đại học”, nhưng lại “trình độ thạc sĩ” và “trình độ tiến sĩ”, cũng như “bằng tốt nghiệp cao đẳng”, “bằng tốt nghiệp đại học” nhưng lại “bằng thạc sĩ” và “bằng tiến sĩ”.
Một điều cần lưu ý là thuật ngữ “đại học” được dùng trong nhiều các tên gọi như: Giáo dục đại học, đại học, trường đại học, bằng tốt nghiệp đại học nhưng lại với nghĩa hoàn toàn khác nhau, việc dịch sang tiếng nước ngoài cũng gặp khó khăn.
Bên cạnh đó, Luật Giáo dục còn quy định “Bằng tốt nghiệp đại học của ngành kỹ thuật được gọi là bằng kỹ sư; của ngành kiến trúc là bằng kiến trúc sư; của ngành y dược là bằng bác sĩ, bằng dược sĩ, bằng cử nhân; hay các ngành khoa học cơ bản; sư phạm; luật kinh tế là bằng cử nhân; đối với các ngành còn lại là bằng tốt nghiệp đại học”.
"Kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ hay dược sĩ nên được hiểu là các chức danh nghề nghiệp (tương tự như “luật sư”, “giáo viên”, “giảng viên”), nếu có chương trình đào tạo cấp bằng thì nên được coi là “bằng cấp chuyên nghiệp” hay “bằng cấp chuyên gia”, khác với các bằng cấp học vị như “cử nhân”, “thạc sĩ”.
Ngay cả thời gian đào tạo và khối lượng chương trình khác nhau (4 – 5 năm, 120 - 160 tín chỉ), thực tế là hầu hết các trường đào tạo ngành kỹ thuật đều cấp bằng “kỹ sư” mặc dù dịch tên bằng sang tiếng Anh là “bachelor” - PGS. Hoàng Minh Sơn nêu vấn đề.
Ngoài ra, theo PGS. Hoàng Minh Sơn, các chức danh giảng viên, giáo sư, phó giáo sư,… chưa được quy định, định nghĩa rõ ràng. Đối với một trường đại học thì các vị trí giáo sư, phó giáo sư đóng vai trò hết sức quan trọng, cần phải quy định rõ trong luật.
Ví dụ giáo sư là vị trí chuyên môn cao nhất của giáo viên trong trường đại học, người có chức danh giáo sư là người đứng đầu và được bổ nhiệm phụ trách một lĩnh vực chuyên môn hẹp trong trường đại học, có uy tín chuyên môn cao trong nước và có công trình khoa học được quốc tế công nhận, trên cơ sở đó Chính phủ quy định tiêu chuẩn cụ thể và quy trình công nhận, bổ nhiệm.
Tuy nhiên, do Luật không quy định chặt chẽ nên trong thực tế đã có những quan niệm khác nhau về các chức danh giáo sư, phó giáo sư và các chức danh giảng viên khác.
"Bên cạnh đó, sự “vênh” giữa Luật Giáo dục đại học và Luật Viên chức cũng gây ra những vấn đề bất cập về chức danh giảng viên. Trong thực tế, không ít giáo sư hay phó giáo sư vẫn “đứng dưới” một trưởng bộ môn ngay cả về ‘tiếng nói chuyên môn” bởi quan niệm quản lý hành chính; việc thu hút các nhà khoa học trẻ ở nước ngoài, hay từ công nghiệp về trường làm việc vì vậy có nhiều trở ngại" - PGS. Hoàng Minh Sơn cho hay, đồng thời phân tích thêm:
Cơ chế tài chính cho giáo dục đại học chưa được quy định rõ trong luật, gây nhiều khó khăn cho hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt được giao cơ chế tự chủ.
PGS. Hoàng Minh Sơn - phân tích thêm: Luật không đưa ra cơ chế, những nguyên tắc căn bản trong cấp phát, phân bổ ngân sách Nhà nước (phân bổ qua cơ chế nào, theo loại hình cơ sở giáo dục đại học, theo năng lực, theo lĩnh vực đào tạo, theo quy mô đầu vào/đầu ra hay chất lượng/hiệu quả, phần nào hỗ trợ người học và phần nào phân bổ cho cơ sở giáo dục đại học, hỗ trợ đào tạo/hỗ trợ nghiên cứu, cơ chế đặt hàng/giao nhiệm vụ…).
Thực tế là trong khi ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục đại học đã rất hạn hẹp, nhưng lại được phân bổ dàn trải, không hợp lý; kinh phí phân bổ qua nhiều “cơ quan chủ quản” khác nhau dẫn tới sự thiếu bình đẳng giữa các trường.
Đặc biệt, trong Khoản 5 Điều 12 - Chính sách của Nhà nước về phát triển GDĐH - có ghi rõ: Nhà nước đặt hàng và bảo đảm kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đối với cơ sở GDĐH có tiềm lực mạnh về khoa học và công nghệ, nhưng không có điều khoản nào cụ thể hóa chính sách này.
"Một thực tế hiện nay là kinh phí từ ngân sách Nhà nước dành cho phát triển khoa học công nghệ trong các trường đại học là quá thấp, khó thúc đẩy phát triển tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao.
Trong bối cảnh ngày nay, sự tham gia, đóng góp tài chính của xã hội (đặc biệt người sử dụng lao động đối với giáo dục là rất quan trọng nhưng cũng chưa được đề cập tới" - PGS. Hoàng Minh Sơn nhấn mạnh.
Tạo đột phá thúc đẩy tiềm lực khoa học công nghệ. Ảnh minh họa/internet |
Sửa đổi, bổ sung đồng bộ cả Luật Giáo dục và Luật Giáo dục
Trước thực trạng trên, PGS. Hoàng Minh Sơn - đề xuất: Cần sửa đổi, bổ sung đồng bộ cả Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học, quy định thống nhất và cụ thể các mô hình cơ sở giáo dục đại học, kèm theo các tên dịch sang tiếng Anh bảo đảm hội nhập quốc tế.
Cụ thể: “Đại học” (University) là một cơ sở giáo dục đại học toàn diện, nhiều lĩnh vực, bao gồm các trường (School, đơn lĩnh vực) hoặc khoa (Department, đơn ngành hoặc ít ngành), trong đó nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu được gắn kết chặt chẽ và được coi trọng như nhau.
Còn trường đại học (College) là một cơ sở giáo dục đại học đơn lĩnh vực (hoặc ít lĩnh vực), bao gồm các khoa đơn ngành hoặc ít ngành, trong đó chủ yếu định hướng đào tạo. Và học viện là một cơ sở giáo dục đại đơn lĩnh vực, định hướng đào tạo gắn với một số ngành nghề cụ thể (ngân hàng, tài chính, an ninh,...).
Ngoài ra, theo PGS. Hoàng Minh Sơn cần sửa đổi, bổ sung quy định về trình độ đào tạo và các học vị tương ứng. Nên quy định các trình độ của giáo dục đại học bao gồm trình độ cử nhân, trình độ chuyên gia, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ là các học vị tương ứng với trình độ đào tạo. Trình độ chuyên gia (nếu có đào tạo) thể hiện qua các chức danh nghề nghiệp, bao gồm kỹ sư, giáo viên, bác sĩ (bác sĩ chuyên khoa I, II), dược sĩ,…
Tiêu chuẩn các chức danh nghề nghiệp do Chính phủ ban hành dựa trên đề nghị của các bộ, ngành, trường đại học và hiệp hội nghề nghiệp.
Mặt khác, nên quy định việc cấp văn bằng tốt nghiệp là để chứng nhận người học đã tốt nghiệp và đạt trình độ nhất định (có thể là học vị hoặc chức danh nghề nghiệp như: Bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sỹ, bằng kỹ sư, bằng bác sĩ chuyên khoa I…
Có nghĩa là lên chú trọng vào trình độ (“học vị” hoặc “chức danh nghề nghiệp”) đạt được của người tốt nghiệp, chứ không phải tấm bằng.
Bổ sung quy định cụ thể về các chức danh giảng viên (giáo sư, phó giáo sư, giảng viên chính, giảng viên trợ giảng), ví dụ: Giáo sư là chức danh nghề nghiệp cao nhất của giảng viên, là người được bổ nhiệm để phụ trách một lĩnh vực chuyên môn hẹp trong cơ sở GDĐH; Phó giáo sư là chức danh nghề nghiệp của giảng viên đứng dưới giáo sư, là người được bổ nhiệm để trợ giúp giáo sư phụ trách một lĩnh vực chuyên môn hẹp trong cơ sở GDĐH…
PGS. Hoàng Minh Sơn - đề xuất thêm: Cần bổ sung và quy định rõ cơ chế tài chính cho giáo dục đại học. Nên quy định ‘cơ chế cấp phát tập trung” đối với ngân sách chi thường xuyên của Nhà nước cho GDĐH, thực hiện thông qua cơ chế hội đồng và do Bộ GD&ĐT chủ trì.
Quy định nguyên tắc căn bản trong tài chính GDĐH là theo “lợi ích” và “hiệu quả”: Nhà nước hỗ trợ ngân sách cho đào tạo và nghiên cứu cho các lĩnh vực nằm trong lợi ích ra đối với các cơ sở giáo dục - đào tạo thực hiện hiệu quả nhất, đồng thời thực hiện các chính sách xã hội, hỗ trợ người học không phân biệt công tư.
Người học chia sẻ chi phí đào tạo và lợi ích phát triển cá nhân và gia tăng cơ hội nghề nghiệp, doanh nghiệp trả một phần chi phí đào tạo cho cơ sở đào tạo theo số lượng và mức thu nhập của những sinh viên tốt nghiệp được nhận vào làm.