Sự tế nhị về... luyến ái

GD&TĐ - Theo ước tính trên toàn thế giới có khoảng 100 triệu người đồng tính luyến ái. Riêng Việt Nam có khoảng 1% người có hình thức luyến ái bất thường trong cộng đồng.

Đồng tính luyến ái vẫn bị xã hội kỳ thị.
Đồng tính luyến ái vẫn bị xã hội kỳ thị.

Trong những năm gần đây, báo chí, dư luận và thậm chí là văn học nói nhiều đến các mối quan hệ đồng tính luyến ái nam hoặc nữ. Về bản chất thì chuyện “tế nhị” này cần được hiểu như thế nào trong y học? 

Định kiến xã hội

Trong một thời gian rất dài của lịch sử loài người, hiện tượng đồng tính luyến ái thường bị tránh né, không được xem xét và bàn bạc một cách nghiêm túc và khoa học. Những định kiến xã hội nặng nề ở hầu hết các quốc gia và dân tộc đã đẩy không biết bao nhiêu số phận của những người đồng tính luyến ái đi vào ngõ cụt.

Điều đó làm cho họ oán hờn gia đình, xã hội và ngay cả chính bản thân mình. Những người xung quanh không ai hiểu được những gì họ đang phải gánh chịu là do lỗi “lập trình” của tạo hóa. Trước khi mọi chuyện dần sáng tỏ, hầu hết họ vẫn cứ lầm lũi, âm thầm bước đi trong sự soi mói bằng cách định kiến của cuộc đời.

Các hình thức

Các hình thức luyến ái của con người xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người. Hình thức luyến ái phổ biến có khuynh hướng áp đảo các hình thức khác, mang lại quan niệm và tâm lý có tính kỳ thị lẫn nhau. Có 3 hình thức luyến ái phổ biến gồm:

- Luyến ái dị giới: Là hình thức luyến ái phổ biến nhất, chiếm khoảng 85 - 90%, xảy giữa nam với nữ. Đây là hình thức luyến ái công khai đã được gia đình, xã hội và luật pháp chấp nhận.

- Luyến ái đồng giới: Hình thức luyến ái này xảy ra giữa nam với nam hoặc giữa nữ với nữ. Đây là hình thức luyến ái ít phổ biến hơn, chiếm khoảng 10 - 15%. Từ xa xưa, tại hầu hết các quốc gia, dân tộc xem đây là hình thức luyến ái bệnh hoạn cần được chữa trị và cấm đoán. Nhưng hiện tại quan niệm này đang dần được thay đổi đến tận góc rễ.

- Luyến ái song tính: Đây cũng là hình thức luyến ái ít phổ biến. Với hình thức luyến ái này một người có thể “quan hệ” cùng lúc với hai đối tượng cùng phái và khác phái, như nam có mối quan hệ tình cảm với nam và nữ hoặc nữ có mối quan hệ tình cảm với nữ và nam.

Trên thực tế, ngoài 3 hình thức luyến ái phổ biến trên còn thấy có những hình thức luyến ái kỳ quặc, đúng là mang tính bệnh hoạn như luyến ái đồ vật, nghĩa là chỉ “yêu” đồ vật chứ không “yêu” con người; luyến ái trẻ em, nghĩa là chỉ “yêu” trẻ em chứ không “yêu” người trưởng thành; luyến ái người già, nghĩa là chỉ “yêu” người già, chứ không “yêu người” trẻ; luyến ái tử thi, tức là chỉ “yêu” xác chết chứ không “yêu” người còn sống…

Bản chất

Người đồng tính luôn có cảm giác mặc cảm và tìm cách che đậy.

Người đồng tính luôn có cảm giác mặc cảm và tìm cách che đậy.

Do ngại nói thẳng, nhằm tránh sự đụng chạm và tế nhị khi đề cập đến những người đồng tính luyến ái, hiện nay, nhiều người có khuynh hướng sử dụng khá phổ biến các thuật ngữ tiếng Anh để chỉ những đối tượng này: “Gay” để chỉ người có mối quan hệ tình dục đồng giới nam, “les hoặc lesbian” để chỉ người có mối quan hệ tình dục đồng giới nữ.

Trước đây, các mối quan hệ “lăng nhăng” nam - nam hay nữ - nữ là chuyện gì đó tày đình, bệnh hoạn, khiến cho dư luận chòm xóm và xã hội xôn xao, thì nay dần dần mọi người đều hiểu đó cũng là chuyện bình thường như khi nam - nữ yêu nhau mà thôi!

Bản chất của việc không yêu người khác giới mà yêu người đồng giới hãy còn nằm trong vòng bí mật. Có giả thiết cho rằng, đây là sự rối loạn cảm năng hay nhân cách từ sự biến đổi “gien” trong não bộ khiến cho sự nhận diện đối tượng tình dục bị sai lệch.

Gần đây, các nhà nghiên cứu Mỹ chỉ ra hiện tượng yêu người đồng giới là một dạng di truyền qua liên kết biểu sinh bởi yếu tố gọi là epi-marks. Các epi-marks là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, mang lại sự giống nhau giữa các thế hệ tương tự như là “gien” di truyền.

Tuy nhiên, khi epi-marks tình dục được truyền từ bố sang con gái hoặc mẹ sang con trai có thể xảy ra tác dụng đảo ngược như nam hóa một số đặc điểm của nữ và nữ hóa một số đặc điểm của nam. Từ đó phát sinh ra sự “rắc rối” giữa các cặp đôi không hoàn hảo.

Ngoài ra, các nhà nghiên cứu và các nhà xã hội học lại thấy nổi cộm lên vấn đề “kinh tế” trong các mối quan hệ luyến ái đồng tính. Điều đó có nghĩa là có thể trong một cặp, thì thực ra chỉ có một người “bóng” mà thôi, còn người kia “yêu” để được thỏa mãn nhu cầu vật chất hay vì một lý do nào đó.

Do những định kiến xã hội mang tính truyền thống, nên những người vướng phải vòng hệ lụy của đồng tính luyến ái luôn có sự mặc cảm và tìm cách che đậy nhu cầu mang tính bản năng và mối quan hệ tình cảm của mình.

Những “bóng” vì sự tác động của môi trường, hoàn cảnh hay vì sự cám dỗ vật chất sau một thời gian thường tỉnh ngộ. Chỉ có những “bóng” thực sự mới thủy chung với những gì đã có mang tính bản chất mà thôi. Các nghiên cứu cho rằng độ tuổi xác định đâu là “bóng” thật, đâu là “bóng” giả là khoảng 30 tuổi.

Gần 20 thế kỷ, những người có hình thức tình dục luyến ái đồng tính sống trong phận tủi trước con mắt săm soi của mọi người và búa rìu của dư luận. Nhiều dân tộc còn xem luyến ái đồng tính là một tội tày đình phải đem ra xử làm gương, răn đe cho mọi người.

Tuy nhiên, khoảng giữa thế kỷ 20, luyến ái đồng tính dần dần được chấp nhận như là hình thức luyến ái dị tính. Luật pháp của nhiều quốc gia trên thế giới tôn trọng quyền quyết định của họ và bảo vệ họ. Các quan hệ dân sự về vấn đề hôn nhân đồng giới và các nghĩa vụ, quyền lợi có liên quan khác đều được xem như là một cặp chồng vợ nam - nữ bình thường.

Pháp luật Việt Nam hiện chưa công nhận sự hợp pháp của các đôi uyên ương đồng tính, nhưng cũng không cấm cản việc họ kết hôn. Tất cả những vấn đề có liên quan đến luật pháp phát sinh trong quá trình “góp gạo thổi chung” đều được giải quyết trong mối quan hệ mang tính dân sự.

Những hệ lụy

Mục đích cao cả của hôn nhân là sự duy trì nòi giống. Nhưng những đứa con chỉ có thể ra đời một cách tốt đẹp ở những cặp hôn nhân có hình thức luyến ái dị tính mà thôi. Một hình hài thiêng liêng, bé bỏng chỉ có thể được tạo ra từ trứng của người phụ nữ và tinh trùng của nam giới, ngoài ra không thể có hình thức nào khác được.

Do đó, hôn nhân của những cặp đôi có hình thức luyến ái đồng tính không thể nào tự tạo ra được một gia đình đầy ắp tiếng cười trẻ thơ, là thế hệ bảo tồn giống nòi. Tuy nhiên, sự khiếm khuyết này có thể bù đắp được bằng việc xin những đứa con nuôi.

Các khảo sát cho thấy, nhiều người còn có quan niệm sai lầm rằng những bệnh lây truyền qua đường tình dục chỉ xảy ra khi có quan hệ tình dục nam - nữ, chứ không xảy ra trong quan hệ tình dục nam - nam hoặc nữ - nữ. Quan niệm sai lầm này góp phần làm gia tăng tỉ lệ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong cộng đồng như lây nhiễm HIV, bệnh lậu, bệnh giang mai hoặc nhiễm khuẩn Chlamydia.

Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Mỹ, năm 2011 luyến ái đồng tính dạng “gay” có nguy cơ nhiễm HIV từ 44 - 86 lần so với những người bình thường khác. Sau đây là vài lời khuyên liên quan đến sức khỏe dành cho những người luyến ái đồng tính:

Hình thức “yêu” nào cũng đều có nguy cơ lây nhiễm các bệnh lan truyền qua đường tình dục, cần tìm hiểu các biện pháp an toàn. Bao cao su luôn là biện pháp che chắn, phòng ngừa hữu hiệu cho các hình thức tình dục.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Bên trong căn hầm tái hiện hoạt động in ấn tài liệu, truyền đơn của Hội ủng hộ Vệ quốc đoàn trong những năm kháng chiến.

Hầm in tài liệu bí mật giữa lòng Sài Gòn

GD&TĐ - Nằm trong con hẻm nhỏ ở đường Ngô Gia Tự, Quận 10, TPHCM, cơ sở in ấn của Hội ủng hộ Vệ quốc đoàn năm 1954 là nơi in cả nghìn ấn bản phục vụ cách mạng.