- Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT ban hành Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học; trong đó cho phép học sinh được sử dụng điện thoại di động nếu phục vụ cho việc học tập và được giáo viên cho phép. Ông nghĩ sao về quy định này?
Có thể nhận định đây là một quyết định thận trọng, có cân nhắc khoa học, tính đến các yếu tố cập nhật hiện đại theo thông lệ giáo dục quốc tế và phù hợp của Bộ GD&ĐT trong bối cảnh hiện nay.
Cần nhớ rằng từ thời điểm ban hành Thông tư 12 đến nay đã qua 9 năm với sự thay đổi nhanh chóng của bối cảnh xã hội, công nghệ và đương nhiên cả giáo dục. Khi đó khái niệm điện thoại với chức năng chủ yếu là phương tiện giao tiếp truyền thông, giải trí, và đương nhiên là khó có thể phù hợp với các hoạt động giáo dục, dạy học trên lớp.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, cần coi điện thoại thông minh là một thiết bị đa năng hơn, tích hợp nhiều giải pháp ứng dụng hơn, đáp ứng được các nhu cầu khác nhau về sử dụng di động cầm tay, trong đó có cả những chức năng phục vụ cho giáo dục!
Phải chăng, cũng đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận điện thoại thông minh như là một “vật thể vật lí” có chức năng như thiết bị dạy học cá nhân, kèm theo một số điều kiện sử dụng trong lĩnh vực giáo dục?!
- Thiết bị điện thoại có thể tham gia vào hoạt động dạy – học thế nào, thưa ông?
Trong bối cảnh chuyển đổi số giáo dục, có một xu hướng đang dần chiếm lĩnh, phổ biến trong thực tiễn giáo dục, dạy học ở các quốc gia. Đó là dạy học di động (mobile learning) với khả năng đáp ứng các nhu cầu học tập khác nhau, cơ hội học tập mở, dạy học cá nhân hóa, cá thể hóa cao độ, khả năng tiếp cận học liệu số, không gian học tập không giới hạn, hình thành và phát triển kĩ năng số cho người học…
Thực ra, trong hơn 10 năm trở lại đây, xu hướng dạy học cho phép sự hỗ trợ, tích hợp sử dụng của thiết bị di động cầm tay cá nhân học sinh trong lớp học (có tên gọi là BYOD hoặc BYOT – Bring your own device/Bring your own tool) khá phổ biến trên thế giới. Tất nhiên, không phải ở mọi quốc gia, vùng lãnh thổ địa phương đều chấp nhận hoàn toàn và ở các cấp độ, điều kiện sử dụng như nhau.
Bên cạnh những vấn đề còn cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tác động lợi-hại hay liên quan đến khía cạnh quản lí, việc sử dụng các thiết bị di động cầm tay cá nhân trong lớp học ngày càng khẳng định tính phổ biến, hữu dụng và hiệu quả trong quá trình dạy học, được các giáo viên ủng hộ.
Với các công nghệ số thịnh hành hiện nay, có thể coi chiếc điện thoại thông minh là một “trợ thủ đắc lực” cho các hoạt động dạy học, giáo dục, tìm kiếm thông tin, phát triển các năng lực số… Và chức năng “điện thoại” giờ đây chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong giá trị nội tại và gia tăng của nó!
Kết nối để tìm kiếm, chia sẻ, truy xuất thông tin, sử dụng các ứng dụng di động được cài đặt trên điện thoại, công cụ để tổ chức các hoạt động kết nối trên nền tảng số, mở rộng không gian tương tác trong học tập… là những chức năng khá cơ bản, có thể khai thác và áp dụng ngay trong thực tế triển khai dạy học, tổ chức các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường.
- Tuy nhiên, việc đặt ra vấn đề này trong bối cảnh thực tế của Việt Nam hiện nay có phù hợp?
Theo thống kê của tổ chức DataReportal (tháng 2/2020), với dân số 97 triệu người, các chỉ số hiệu năng đều vào loại cao (chỉ số sở hữu thiết bị di động, điện thoại thông minh, kết nối Internet, thời gian sử dụng thiết bị hàng ngày…), Việt Nam đang được đánh giá là một quốc gia trẻ dầy triển vọng trong chuỗi tiến trình phát triển trở thành quốc gia số.
Các tổ chức làm chính sách, định hướng vĩ mô cho giáo dục có uy tín đều khuyến cáo về vấn đề kĩ năng số, xóa mù số cho thế hệ công dân tương lai (DigCom, UNESCO, UNICEF, Hiệp hội quốc tế về công nghệ giáo dục – ISTE…). Trong đó đều nhấn mạnh đến khả năng và cơ hội tiếp cận số cho trẻ.
Trong bối cảnh thực tiễn xã hội của Việt Nam hiện nay, có thể nói thiết bị công nghệ số “đầu đời” mà trẻ được tiếp cận chính là chiếc điện thoại thông minh trong gia đình và hiện hữu ở mọi nơi trong mọi hoạt động thực tế cuộc sống. Đã đến lúc chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận đây là “thứ đồ chơi công nghệ” gần gũi nhất của trẻ hiện nay.
Vấn đề thách thức đối với những người làm giáo dục là làm sao biến nó trở thành “thiết bị dạy học” đặc biệt trong hoạt động dạy học hơn là thứ “sở hữu cá nhân” và chỉ dùng với mục đích cá nhân của học sinh!
- Dù vậy, rõ ràng việc cho phép học sinh sử dụng điện thoại, dù là có điều kiện, cũng đem đến những thách thức mới với giáo viên!
Cần phải thừa nhận rằng, không phải dễ dàng thực hiện ngay việc chuyển đổi tư duy, nhận thức và cách thức sử dụng chúng trong dạy học ngay được. Có 2 câu hỏi đang đặt ra: giáo viên, học sinh có thể làm gì với điện thoại thông minh và làm thế nào để quản lí việc sử dụng điện thoại thông minh một cách hiệu quả cho mục đích dạy học?
Hiện nay, trên cả 2 nền tảng phổ biến là Androi và iOS, mỗi ngày có khoảng hơn 4000 ứng dụng di động dành cho lĩnh vực giáo dục được viết ra, trong số đó khoảng hơn 2/3 là miễn phí.
Như vậy, khả năng tích hợp các ứng dụng di động được cài đặt trên điện thoại vào trong các hoạt động tổ chức, triển khai dạy học trong và ngoài lớp học là vô cùng lớn. Ngoài ra, điện thoại còn có thể sử dụng như một “thiết bị vật lí cầm tay” để giáo viên, học sinh linh hoạt, sáng tạo không giới hạn, sử dụng cho các hoạt động khám phá (như một chiếc kính hiển vi, camera chụp ảnh, máy quét kĩ thuật số, màn hình “trải nghiệm” thực tế hỗn hợp thực-ảo, các công cụ đo lường cá nhân v.v) hoặc như một thiết bị kết nối ngoại vi đa năng trong dạy học.
Để quản lí tốt việc sử dụng điện thoại trong hoạt động dạy học thì trước hết phải có mục đích, nội dung sử dụng rõ ràng kèm theo những qui định và nguyên tắc sử dụng được báo trước cho tất cả các bên, kể cả phụ huynh học sinh. Điều này có thể hơi bỡ ngỡ đối với giáo viên và học sinh trong thời gian đầu vì chưa có tiền lệ. Mặt khác, công nghệ hiện nay cũng đã có những giải pháp để quản lí “cơ học” hệ thống các thiết bị di động sử dụng trong những tác vụ nhất định (ví dụ: hệ thống hỗ trợ quản lí, cảnh báo và ngăn chặn truy cập nếu thiết bị đang sử dụng sai mục đích, ứng dụng chuyên dụng được cài đặt trên điện thoại dành cho học sinh).
- Ông có thể đưa ra một số gợi ý với giáo viên để giúp học sinh tận dụng được lợi thế từ thiết bị điện thoại trong học tập?
Bài toán sử dụng điện thoại sẽ đặt ra cho giáo viên một cách tư duy mới về tổ chức quá trình dạy học, trong đó bao gồm cả kịch bản sư phạm và kịch bản công nghệ. Điều này càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh giáo viên ngày càng được trao quyền tự chủ hơn trong thiết kế và tổ chức nội dung dạy học, hướng dẫn cách học, kiểm tra đánh giá năng lực học sinh theo tinh thần chương trình giáo dục phổ thông mới hiện nay.
Ví dụ, giáo viên sẽ phải thay đổi cách dạy học, tổ chức hoạt động tìm kiếm, khám phá, thông tin kiến thức cho học sinh khi sử dụng các ứng dụng trên điện thoại thông minh thay vì chỉ hướng đến mục tiêu tìm ra đáp án, kết quả.
Trước mặt, các đơn vị có thẩm quyền chức năng của Bộ, Sở GD&ĐT có thể lên danh mục gợi ý các ứng dụng di động sử dụng thiết bị cầm tay trong lớp học (kể cả điện thoại thông minh), hướng đến việc tiếp tục ban hành hướng dẫn sử dụng điện thoại thông minh như một “thiết bị dạy học” di động cầm tay được chấp nhận.
Căn cứ vào chương trình giáo dục và điều kiện cụ thể phù hợp, nhà trường cụ thể hóa, lựa chọn các ứng dụng cơ bản, phổ biến, dễ dàng tiếp cận cài đặt và sử dụng trong quá trình dạy học cho các môn học, các khối lớp trên cơ sở đã phân tích đánh giá kĩ về khía canh sư phạm và công nghệ.
Giáo viên cài đặt, sử dụng tích hợp một số ứng dụng di động trên điện thoại phù hợp với yêu cầu tổ chức hoạt động dạy học và năng lực sử dụng công nghệ, hướng dẫn cho học sinh, phụ huynh học sinh về “khung kĩ thuật”, “khung chức năng”, các yêu cầu sử dụng điện thoại và các ứng dụng trên đó trong quá trình học tập.
Ở mỗi nội dung dạy học bài học, hoạt động giáo dục, giáo viên cần có thêm tư duy và hành động ứng dụng công nghệ trên tinh thần tạo cơ hội tiếp cận nội dung và hoạt động tương tác cho học sinh.
Dạy học có sử dụng thiết bị di động cầm tay (trong đó có điện thoại thông minh) mới chỉ là những “trạng thái” ban đầu và càng không phải là cứu cánh của quá trình chuyển đổi số trong giáo dục. Tuy nhiên, nếu chúng ta làm đúng ngay từ đầu, hy vọng việc sử dụng thiết bị thông minh một cách “thông minh” sẽ giúp thế hệ trẻ được tiếp cận với một phương thức giáo dục “thông minh hơn”.
- Xin cảm ơn ông!