Từ lâu, nhiều vùng khó khăn của Tuyên Quang bị chi phối bởi phương thức sản xuất truyền thống, độc canh cây ngô, cây lúa với năng suất thấp, dẫn đến thu nhập bấp bênh và tái nghèo. Vấn đề cốt lõi không chỉ là thiếu vốn, mà người dân còn thiếu thông tin, sự thiếu hụt kiến thức về thị trường, kỹ thuật canh tác tiên tiến và mô hình kinh tế hiệu quả.
Nhận diện rõ thách thức này, Tuyên Quang đã đưa ra chiến lược "sinh kế vững để thoát nghèo bền". Tỉnh Tuyên Quang đã huy động nguồn lực từ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 để triển khai hàng trăm mô hình sinh kế gắn với thế mạnh địa phương.

Thay vì chỉ phát tài liệu, các cán bộ phụ trách đã trực tiếp xuống thôn, hướng dẫn người dân làm mô hình. Cách làm "cầm tay chỉ việc" này chính là biện pháp hiệu quả nhất để truyền tải thông tin, biến kiến thức nông nghiệp khô khan thành kỹ năng thực tế cho hàng chục nghìn hộ nghèo và cận nghèo.
Điển hình cho hiệu quả của chiến lược này là Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất trồng sa nhân tím tại các thôn Ma Dì Vảng, Chúng Chải, Péo Suối Ngài (xã Xín Mần). Với tổng kinh phí hơn 755 triệu đồng, dự án đã hỗ trợ 22 hộ dân.
Ông Giàng Mìn Sèng, một hộ tham gia Dự án tại thôn Chúng Chải, phấn khởi chia sẻ sự thay đổi nhờ thông tin và kỹ thuật mới: “Trước đây, chỉ quen trồng ngô, lúa năng suất không cao. Mấy năm gần đây, được cán bộ xã tuyên truyền, hướng dẫn và Nhà nước hỗ trợ trồng sa nhân tím, tôi đã mạnh dạn làm.”
Kết quả thực tế đã khẳng định tính đúng đắn của việc chuyển đổi: mỗi hecta sa nhân tím thu về dự kiến đạt khoảng 50-70 triệu đồng, cao hơn nhiều lần so với trồng lúa, ngô. Đặc biệt, việc sản xuất sa nhân còn tạo việc làm thường xuyên cho 5-10 lao động trên mỗi hecta, giải quyết vấn đề việc làm tại chỗ.
Không chỉ với cây dược liệu, Tuyên Quang còn khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng hàng hóa. Các mô hình chăn nuôi dê sinh sản tại các xã Trường Sinh, Phú Lương, Tân Thanh, Đông Thọ đang mang lại thu nhập ổn định cho hàng chục hộ nghèo.
Tỉnh cũng tập trung vào các sản phẩm đặc trưng khác như chè Shan tuyết, mật ong bạc hà, cây dược liệu quý, và chăn nuôi trâu, bò hàng hóa. Điều quan trọng là sự hỗ trợ sản xuất, chuyển giao kỹ thuật và bao tiêu đầu ra, giúp người dân không còn lo lắng về thị trường.
Đây chính là sự khác biệt căn bản trong chiến lược giảm nghèo, không chỉ “trao cần câu” mà còn dạy người dân “câu đúng chỗ, đúng thời điểm” để thu được lợi nhuận cao nhất, phá vỡ vòng luẩn quẩn của giảm nghèo thông tin về thị trường và kỹ thuật.
Nếu những mô hình sinh kế là hạt nhân, thì sự đồng bộ, bài bản và quyết liệt trong chỉ đạo từ cấp tỉnh đến cơ sở chính là nền móng tạo nên thành công tổng thể của Tuyên Quang.
Một hướng đi sáng tạo là tạo sự liên kết giữa các xã vùng thấp có điều kiện tốt hơn với các xã vùng cao, vùng sâu còn nhiều khó khăn. Các cuộc hội thảo, chuyến tham quan, học hỏi kinh nghiệm được triển khai liên tục, giúp thông tin, kỹ thuật và mô hình kinh tế hiệu quả lan tỏa nhanh chóng và đồng đều.
Cán bộ các cấp luôn bám địa bàn, đồng hành cùng người dân tháo gỡ khó khăn. Chính cách làm kề vai, sát cánh ấy đã rút ngắn khoảng cách phát triển, mang lại niềm tin mới cho đối tượng thụ hưởng chính sách.
Từ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cơ sở hạ tầng của khu vực nông thôn Tuyên Quang ngày càng khang trang, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất hàng hóa và giao thương .
Đây không chỉ là thành tựu về kinh tế, mà còn là thắng lợi trong việc giảm nghèo thông tin, giúp người dân tự tin, chủ động làm chủ sinh kế và cuộc sống của mình. Tuyên Quang đang chứng minh rằng, với cách làm chủ động, sáng tạo và lấy người dân làm trung tâm, mục tiêu "không để ai bị bỏ lại phía sau" trên hành trình phát triển bền vững là hoàn toàn khả thi.
Theo các số liệu thống kê, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Hà Giang (trước khi sáp nhập) giảm từ 42,85% cuối năm 2021 xuống còn 25,93% cuối năm 2024 (giảm bình quân 5,38%/năm). Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Tuyên Quang (trước khi sáp nhập) giảm từ 23,45% cuối năm 2021 xuống còn 10,19% cuối năm 2024 (giảm bình 4,42%/năm).