Giúp trò hứng thú với môn học
Trong công tác chuyên môn, cô Hoàng Thị Vượng - Trường THCS Đại Kim (Hoàng Mai, Hà Nội) luôn nghiên cứu tìm hiểu chương trình của cả cấp học để tìm ra kiến thức trọng tâm, xuyên suốt sau đó lồng ghép, sắp xếp một cách khoa học cùng phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại.
Cô Vượng chia sẻ, từ năm học 2021 - 2022, các trường bắt đầu thực hiện Chương trình GDPT 2018 với nhiều khó khăn thách thức. Là giáo viên với gần 20 năm kinh nghiệm dạy học bộ môn Hóa học và nay là môn Khoa học tự nhiên nhưng cô không tránh khỏi bỡ ngỡ.
“Giúp học sinh học tốt, yêu thích môn học là cái tâm với nghề và cũng giúp chính mình. Học trò có yêu thích mới học và chủ động, có chủ động mới có sáng tạo. Như vậy, vừa đảm bảo học sinh có kiến thức, giáo viên hoàn thành nhiệm vụ đổi mới giáo dục, đảm bảo chất lượng bộ môn”, cô Vượng nói.
Một trong những giải pháp quan trọng mà cô Vượng đưa ra là xây dựng hệ thống kiến thức ngắn gọn, móc nối logic xuyên suốt và phương pháp học tư duy để học sinh học một cách tự nhiên, nhẹ nhàng không áp lực. Muốn vậy, giáo viên nghiên cứu tìm hiểu chương trình cả cấp học, phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại.
Cô lấy ví dụ trong sách giáo khoa lớp 7, sách liệt kê các nguyên tố theo thứ tự trong bảng tuần hoàn nên số lượng nhiều mà có những những nguyên tố trong đời sống các em không thấy bao giờ, không có ứng dụng gì trong thực tế. Thậm chí trong quá trình học hết cấp THCS, các em không tìm hiểu về nó như Boron, Helium...
Trong khi đó, những nguyên tố kim loại, phi kim mà học sinh được tiếp xúc, biết đến nhiều trong cuộc sống lại có nhiều ứng dụng nhưng chỉ được giới thiệu mờ nhạt ở bài tìm hiểu về Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Chưa kể, để đến mục tiêu chương trình môn học ở lớp 8, 9 các em phải tìm hiểu và nắm được tính chất, sự biến đổi của chúng.
Bởi vậy, ngay từ bài “Sơ lược về bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học”, cô cho học sinh thi để phát hiện, kể tên các kim loại, phi kim thường gặp dựa vào mẫu vật cụ thể, tranh ảnh, video hoặc liên hệ thực tế và ngược lại. Từ đó, cô hướng dẫn, gợi ý học sinh học ký hiệu các nguyên tố kim loại, phi kim.
Khi học về hóa trị, cô hướng dẫn học sinh theo phương án loại trừ. Sắp xếp hóa trị III học trước, hóa trị I học sau và còn lại hóa trị II theo bảng, vừa củng cố phân loại kim loại, phi kim vừa dễ nhớ hóa trị. Khi học sinh nắm được hóa trị, các em dễ dàng lập được công thức hóa học của hợp chất.
Trần Gia Thái - học sinh lớp 9A1, Trường THCS Đại Kim chia sẻ, em thích học môn Khoa học tự nhiên do cô Vượng dạy. Không chỉ được học kiến thức còn được thực hành, vận dụng nhiều. Mẹo để ghi nhớ các nguyên tố được cô chỉ dẫn rất hay, dễ nhớ.

Học mà chơi, chơi mà học
Để nâng cao chất lượng bộ môn Khoa học tự nhiên, thầy Nguyễn Thanh Tùng - Trường THCS Phúc Diễn (Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đã xây dựng và thiết kế các công cụ, học liệu mới. Thầy đồng thời sử dụng kỹ thuật dạy học hiện đại như: Xây dựng hệ thống mô phỏng thí nghiệm; sử dụng một số phần mềm thực tế ảo; thiết kế trò chơi boardgame trong giảng dạy.
Thầy Tùng chia sẻ: Từ trước đến nay, các phương tiện trực quan như tranh ảnh, sơ đồ, video thí nghiệm được giáo viên thường xuyên sử dụng trong tiết học. Các phương tiện trên đã giúp học sinh dễ hình dung, từ đó hình thành kiến thức về tính chất hóa học của các chất.
Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, ngoài sử dụng các phương tiện trực quan, cần dùng thêm thí nghiệm ảo để học sinh có nhiều cách tiếp cận, ghi nhớ kiến thức sâu hơn. Ví dụ, trong bài học sử dụng mô phỏng thí nghiệm nghiên cứu tính chất của đường và muối, thầy đã tổ chức hoạt động cho học sinh tự thiết kế mô hình trực quan từ các nguyên liệu sáng tạo để khơi dậy sự hứng thú trong tiết học thực hành. 5 chủ đề được xây dựng trên phương pháp này tập trung chủ yếu vào khối 6, 7 được học sinh nhiệt tình tham gia.
“Một số thí nghiệm độc hại, có khả năng gây nguy hiểm khi trực tiếp thực hành được tôi mô phỏng hóa, giúp học sinh vẫn được tiếp cận”, thầy Tùng cho hay.
Nhận thấy, công nghệ thực tế ảo đang là xu hướng mới, giúp học sinh tiếp cận với kiến thức thực tế mà các phương tiện truyền thống không đáp ứng được do điều kiện về cơ sở vật chất. Với vai trò người tiên phong trong nhiệm vụ đổi mới, thầy Tùng đã cố gắng tìm kiếm các phần mềm dạy học thực tế ảo phù hợp trên Internet và ứng dụng vào tiết học.
Thầy Tùng đã “phát minh” 5 phần mềm thực tế ảo, áp dụng cho hơn 100 tiết học, thuộc 5 chủ đề thuộc chương trình Khoa học tự nhiên các lớp 6, 7, 8, 9. Khi áp dụng, mỗi phần mềm đều đi kèm với kế hoạch bài dạy, phiếu học tập trên lớp và ở nhà cùng hướng dẫn sử dụng phần mềm hiệu quả. Các tiết học trở nên sôi nổi, hào hứng, tác động trực tiếp vào nhóm có học lực trung bình yếu, giúp học sinh nắm vững kiến thức và chủ động tham gia bài học. Các em chủ động học tập ngay cả ở trên lớp và ở nhà thông qua các phần mềm miễn phí.
Trong quá trình giảng dạy, thầy Tùng còn lồng ghép kiến thức khoa học tự nhiên vào những trò chơi mà học sinh hứng thú. Đến nay, thầy thiết kế 5 trò chơi có tính ứng dụng cao, trong đó 1 trò chơi dành cho học sinh lớp 6, 2 trò chơi dành cho học sinh lớp 7 và 2 trò chơi dành cho học sinh lớp 8. Trò chơi của thầy nhìn bắt mắt, mới lạ, lại không mất tiền mua nên ai cũng nhiệt tình hưởng ứng. Vừa học vừa chơi, chơi mà học nên học sinh luôn cảm thấy môn học thật gần gũi, thú vị.
Cô Đỗ Thị Kim Loan - Hiệu trưởng Trường THCS Phúc Diễn nhận định: Nhờ những sáng tạo của thầy Nguyễn Thanh Tùng, mức độ hứng thú và yêu thích môn Khoa học tự nhiên của học sinh tăng lên. Việc học mà chơi, chơi mà học giúp học sinh ghi nhớ kiến thức tốt hơn, qua đó nâng cao kết quả học tập cũng như chất lượng giảng dạy.