Phổ biến nhưng khó tìm ra nguyên nhân
Tiếp cận trên góc độ lâm sàng, TS.BS Nguyễn Lê Trung Hiếu (khoa Nội thần kinh, Trường ĐH Y Dược TPHCM) đưa ra cảnh báo về tình trạng ngày càng đông phụ huynh đưa con đến các phòng khám chuyên khoa thần kinh vì trẻ có những biểu hiện liên quan đến RLHT, đặc biệt vào dịp đầu hè với những câu hỏi thường gặp: “Bác sĩ ơi, sao con tôi không thể tập trung học được? Sao bé không thể ghép vần? Không rõ vì sao bé gặp khó khăn rất nhiều trong việc viết chữ và tính toán?…”.
Hàng loạt các thống kê dịch tễ học từ nhiều nước phát triển cho thấy RLHT là một tình trạng khá phổ biến. Chiếm tỉ lệ nhiều nhất là RL viết với mức từ 5-20%. Nghĩa là, cứ 10 trẻ có đến 2 trẻ bị RL viết. Kế đến, RL đọc có tỉ lệ từ 5-17%, RL chú ý 3-12%, RL tính toán 3–6%, RL phổ tự kỷ 0.78%,… GS Trương Đình Kiệt - Viện trưởng Viện Di truyền Y học, cho rằng: “Vấn đề này đã và đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm và có những hành động can thiệp cụ thể. Thống kê tại Hoa Kỳ cho thấy nước này có đến 2,9 triệu người bị RLHT, Việt Nam thì chưa có con số thống kê nào cụ thể về RLHT”.
Trẻ bị RLHT xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các bệnh lý thực thể mắc phải hoặc các yếu tố tâm lý, xã hội, gia đình, như: Chuyển hóa PKU Galactosemia, Nội tiết Suy giáp, Thần kinh Di chứng sau viêm màng não, xuất huyết não…; RL vận động, Di truyền Down, RL liên quan NST X; Tâm thần, trầm cảm, rối loạn lo âu, câm chọn lọc, tăng động, tự kỷ giác quan, câm, điếc, tật khúc xạ;…
Theo BS Nguyễn Thụy Minh Thư (Bệnh viện Nhi đồng 2, TPHCM), để tầm soát RLHT, các bác sĩ chuyên khoa thần kinh sử dụng rất nhiều phương pháp, công cụ khác nhau như: Denver II, test IQ, ASQ 3, CBCL, BASC-2, PEEXII, BADYs, BIRTE, COMDY, DEMAT, TOWL-4… Trước đó, trẻ cũng đã được khám toàn diện, tìm kiếm các nguyên nhân từ tiền căn gia đình, tiền căn bản thân; khảo sát kết quả học tập ở trường, nhận xét của giáo viên, phụ huynh, kiểm tra thời gian ngủ, thính lực, thị lực; các kiểu dị hình… Tuy nhiên, TS.BS Nguyễn Lê Trung Hiếu trăn trở: “Sau khi đã dùng mọi phương pháp từ lâm sàng đến cận lâm sàng và loại trừ những nguyên nhân đã nêu ở trên, vẫn còn một số lượng lớn trẻ bị RLHT nhưng lại không thể tìm được nguyên nhân là gì!?”.
Theo TS Giang Hoa (Viện Di truyền Y học TPHCM), bên cạnh các biện pháp chẩn đoán bệnh lý gây nên chứng rối loạn bệnh tật trước đây, nay nhờ có thêm giải pháp về di truyền mà người ta có thêm cơ sở để chẩn đoán, loại trừ. Giải pháp này cũng chẩn đoán được 26% trường hợp. Tuy nhiên, RLHT không dễ nhận biết vì trẻ bình thường có trí thông minh từ mức trung bình cho đến cao, điều này khác hẳn với trẻ chậm phát triển. Ở trẻ chậm phát triển trí tuệ, chỉ số IQ luôn thấp hơn bình thường.
Ở một khía cạnh khác, BS Phan Thiệu Xuân Giang (Trường ĐH Y Dược TPHCM) cho rằng, RLHT là RL liên quan đến việc hiểu và sử dụng ngôn ngữ viết hay nói. Biểu hiện dưới dạng không tương ứng giữa tuổi và mức độ khả năng của trẻ trong việc đạt được một hay nhiều lĩnh vực học tập: biểu lộ bằng lời nói, nghe và hiểu, đọc, viết hay làm toán (trẻ không có những vấn đề khuyết tật khác). Nhiều ý kiến cho rằng nên có danh mục trẻ bị RLHT để cả xã hội can thiệp. Trong đó, RL đọc là dạng thường gặp nhất, chiếm khoảng 80%. Không có sự khác biệt về giới tính; trẻ nam có khuynh hướng biểu lộ đi kèm như gây hấn, rối loạn cư xử hơn so với trẻ nữ.
Theo bác sĩ Nguyễn Thụy Minh Thư, để nhận biết RLHT có thể thấy những trẻ này có mức học tập đạt được thấp hơn so với mong đợi ở mức tuổi của trẻ. Ở dạng RL đọc là hiệu suất đọc nhỏ hơn hoặc bằng chỉ số đo 1SD so với tuổi và trí thông minh. RL tính toán là tiếp thu kém về số học, khó khăn khi đếm, tính toán và so sánh số, khó nhận diện số La Mã. RL viết là kỹ năng viết thấp hơn so với tuổi dù trí thông minh và thụ hưởng giáo dục phù hợp.
Một giáo viên đang hướng dẫn trẻ bị rối loạn đọc |
Cần sự phối hợp liên ngành để can thiệp
Ở góc nhìn giáo dục, ThS Hoàng Thị Nga (Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường ĐH Sư phạm TPHCM) cho rằng, Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định các dạng tật hiện nay ở Việt Nam bao gồm 6 dạng, đó là: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ và các khuyết tật khác… Tuy nhiên, theo Luật này, khuyết tật học tập (KTHT) hay RLHT vẫn chưa được thể hiện rõ trong phân loại các dạng tật. Học sinh KTHT thường bị nhầm lẫn với học sinh khuyết tật trí tuệ và thường được bạn bè, giáo viên cho rằng thành tích học tập yếu kém là do các em lười biếng, ngu dốt, ẩu, khờ...
Thời điểm xác định trẻ có bị KTHT hay không diễn ra chậm hơn các dạng khuyết tật khác. Khó khăn trong học tập tập bắt đầu thể hiện trong suốt tuổi đến trường nhưng cũng có thể chưa thể hiện đầy đủ cho tới khi những yêu cầu về kĩ năng đó vượt quá khả năng của cá nhân trẻ. Do đó cần nhiều thời gian để chẩn đoán chính xác dạng khuyết tật này. Chính vì vậy, việc nhận diện và xác định học sinh KTHT không hề dễ dàng và đơn giản, cần sự tham gia của nhóm các nhà chuyên môn gồm bác sĩ thần kinh nhi, chuyên viên tâm lý, các nhà trị liệu, giáo viên giáo dục đặc biệt và các giáo viên dạy trực tiếp học sinh. Tuy nhiên góc nhìn hệ thống này vẫn chưa được triển khai hiệu quả tại Việt Nam.
Theo ThS Hoàng Thị Nga, đáng tiếc chính giáo viên cũng không biết hoặc không có hiểu biết chính xác về đối tượng học sinh bị RLHT. Nhiều người còn cho rằng học sinh khó khăn về tiếp thu kiến thức là do khuyết tật trí tuệ, lười học, gia đình không quan tâm… Từ đó đưa ra nhiều biện pháp giúp đỡ không phù hợp như trách phạt, giao bài tập quá sức, bắt các em học bài trong giờ giải lao...
Bỏ sót việc chẩn đoán học sinh RLHT, nhà trường không có hồ sơ theo dõi riêng; công tác bàn giao giữa giáo viên năm trước và năm sau chưa quan tâm đến các trường hợp này; lâu dần những khó khăn về học tập của các em ngày càng trầm trọng và việc HS học hết tiểu học vẫn không biết đọc, biết viết là có khả năng xảy ra. Kết quả là chúng ta có thể gặp những học sinh RLHT học đến lớp 5 vẫn chưa thể đọc trơn tru, rành mạch; có học sinh học hết lớp 3 nhưng vẫn không thể làm toán được nếu không có que tính; hoặc có học sinh học hết lớp 1 mà không thể thực hiện các phép tính cộng trừ trong phạm vi 10…
Do không được chẩn đoán đúng, có những can thiệp phù hợp, đồng thời lại chịu những áp lực từ gia đình, nhà trường, bạn bè, học sinh bị RLHT có xu hướng trốn tránh, thoái lui, không đối diện với khó khăn, che đậy những khuyết điểm của mình. Chẳng hạn, học sinh bị khó đọc sẽ dùng cách đoán chữ, học thuộc lòng khi đọc. Mặt khác một số học sinh RLHT khi gặp thất bại trong việc học tập lại xuất hiện hành vi gây gổ và mang tâm lý tự ti.