Thế nhưng, cái chết của ông lại cho thấy phận con sâu cái kiến giữa chế độ mà mình đang phục vụ.
Hà Tông Quyền (1798 - 1839), tên thường gọi là Hà Quyền hay Hà Tôn Quyền, tự Tốn Phủ, hiệu Phương Trạch và Hải Ông. Ông là người làng Cát Động, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, trấn Sơn Nam (nay là thị trấn Kim Bài, Thanh Oai - Hà Nội). Cha ông là Hà Tông Đồng, đỗ Cử nhân triều Lê nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học tại quê nhà.
Tiến sĩ khai khoa
Theo các nguồn sử liệu, Hà Tông Quyền là hậu duệ xa đời của Phụ quốc Thượng tướng quân Hà Mại (1334 - 1410). Gia tộc ông nhiều đời có công lớn với dân tộc và các triều đại. Từ thời Lê sơ, tổ tiên Hà Tông Quyền đã cư ngụ tại làng Tỉnh Thạch, huyện Thiên Lộc (nay là xã Tùng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh).
Sang đời Lê trung hưng, một nhánh họ Hà Tỉnh Thạch đã di cư ở tại huyện Yên Định (Thanh Hóa). Tại đây, họ Hà đã sinh ra danh sĩ Hà Tông Huân (1697 - 1766) đỗ Đình nguyên Bảng nhãn năm 1724 đời vua Lê Dụ Tông. Về sau, tổ tiên Hà Tông Quyền lại di cư tới làng Cát Động (Thanh Oai) và đến đời Hà Tông Quyền, tổ tiên ông đã định cư ở Cát Động được 3 - 4 thế hệ.
Theo sách “Đại Nam liệt truyện”, tuy cha của Hà Tông Quyền là thầy đồ hay chữ nhưng lại mất sớm, việc học hành của con đều do một tay người vợ đảm lo liệu. Tương truyền, ông nổi tiếng thần đồng, có tài đọc sách rất nhanh, một thoáng liếc mắt có thể đọc được tới chục hàng chữ (nhất độc thập hàng).
Truyện Hà Quyền chép trong quyển “Phương Trạch Hà Tốn Phủ truyện” (ký hiệu A. 2546 ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm) có câu: “Dạ tĩnh thường văn độc thư thanh” - nghĩa là đêm thanh vắng thường nghe tiếng (ông) đọc sách.
Sau khi học hết thầy ở trường làng, Hà Tông Quyền đến Thăng Long xin theo học tại trường của danh sĩ Phạm Quý Thích và Bùi Huy Bích. Tại đây, ông kết bạn với các nhà Nho nổi tiếng sau này như Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan…
Năm Tân Tỵ (1821) đời Minh Mạng, ông thi đỗ Hương cống. Năm sau (1822), khi nhà Nguyễn bắt đầu mở khoa thi Hội, ông vào Huế tham gia ứng thí và đỗ đại khoa, trở thành 1 trong 8 Tiến sĩ khai khoa triều Nguyễn.
Sách “Đại Nam liệt truyện” do Tổng tài Quốc Sử Quán Cao Xuân Dục chủ biên, đánh giá: “Quyền tư trời thông minh nhanh nhẹn…”. Trong sách “Quốc triều đăng khoa lục”, Cao Xuân Dục một lần nữa khẳng định: “Ông thiên tư thông minh, linh lợi, nổi tiếng nhất thời bấy giờ... Khi ông nhậm chức ở Kinh, được vua rất mến trọng, đặc cách cho hàng ngày được vào chiêm bái trước bệ rồng, ân sủng thật khác”.
Sau khi thi đỗ, Hà Tông Quyền lần lượt giữ các chức Tri phủ Tân Bình, Tham biện Quảng Trị, Thự thiêm sự bộ Công, Thái thường tự Thiếu khanh, Hữu Thị lang bộ Lễ, Hàn lâm viện Kiểm thảo…
Hai lần cứu vua
Hà Tông Quyền từng 2 lần cứu vua thoát chết và giữ trọng trách đại thần Viện Cơ Mật. Ảnh: ITN. |
Các nguồn sử ghi rằng, năm Minh Mạng thứ 11 (1830) nhân ghé tàu vào bến cảng, thương nhân Tây Dương cho gửi quà dâng hiến vua. Nhất cử lưỡng tiện, chắc mục đích họ vừa muốn cảnh cáo, vừa muốn mưu sát nhà vua, nhưng đã được Hà Tông Quyền phát giác trước.
Khi thương gia Tây Dương tiến áo cẩm bào, giá ngàn vàng; Quyền dâng lời: – Đồ lạ của nước ngoài, không nên nhẹ dạ tin; xin cho tử tù mặc thử. Quả thật, khi gài nút thì lửa cháy, tù nhân bị lửa đốt chết. Nhà vua kinh hãi than phiền.
Sau đó lại có người nước Hoa Lang (Hà Lan) tiến cặp 4 cây sáp linh cỡ lớn; Quyền xin bẻ 1 cây làm hai, thì ở trong chứa hỏa pháo và thuốc khói mù, nhà vua lấy làm kỳ dị về tài năng, thường nói rằng: “Triều đình không thể một ngày thiếu Quyền!”.
Lại bảo rằng: “ Tông Quyền về chính sự, Tế Mỹ về văn học, Nguyễn Công Trứ về thao lược; thật không thẹn với danh tiếng khoa bảng”. Nhà vua không chỉ ban ơn riêng, mà còn cho vời mẹ Quyền vào kinh đô, để tìm cách ưu đãi.
Năm 1831, ông được thăng làm Hữu Thị lang bộ Hộ, nhưng chủ yếu coi việc Nội các. Cuối năm này, vì sơ suất nhỏ trong việc duyệt tài liệu mà bị cách mọi chức tước và bị đi hiệu lực sang Bali – thuộc quần đảo Nam Dương.
Sách “Đại Nam thực lục” có chép việc này như sau: “Mùa Đông, tháng 11, năm Tân Mão (1831), Hộ bộ Thị lang sung Nội các là Hà Quyền bị tội, mất chức, trước kia được giao bài thơ “Thu thành phân số” của nhà vua làm, dưới chỗ chú thích có chữ Thanh Xuyên huyện, người thuộc viên ở Nội các viết lầm là Thanh Châu.
Vua hỏi Quyền, Quyền hoảng sợ, tâu: Trót theo tờ sớ của trấn. Sau biết là lầm, bèn lén đem chữa lại tờ sớ để cho đúng với lời tâu. Thuộc viên ở Nội các là Trần Lý Đạo đàn hặc Quyền về tội đó. Vua sai đình thần luận tội. Đáng xử tội đồ, nhưng vua đặc cách ra lệnh cách chức, cho làm lính, phát đi đường biển để gắng sức làm việc chuộc tội”.
Sau đó mấy tháng, khoảng giữa năm 1832, vua Minh Mạng gọi ông về, ban chiếu cho vào Nội các, cho phục chức cũ, nhà vua nói: “Khanh đi 3 tháng, Trẫm ăn không ngon; Trẫm sở dĩ thống ngự được bốn phương, khu trục động loạn, không có khanh không thể được”.
Khi về, bao nhiêu thơ sáng tác trong lúc xa nước xa quê, ông gom thành một tập đề là “Mộng dương”, các thơ văn khác gom vào bộ “Tốn Phủ thi văn tập”. Vua Minh Mạng khen tài ông “Kiện tiệp tài tử”.
Nhà Nguyễn có lệ 'Tứ bất lập' nên lời tâu của Hà Tông Quyền vô tình bị em trai vua thù oán. Ảnh: ITN. |
Nghi án bị em vua sát hại
Năm 1833, Hà Tông Quyền được thăng làm Hữu thị lang bộ Công, năm 1835 lại được thăng làm Tham tri Lễ bộ và vẫn coi việc Nội Các. Đến năm 1838, ông được thăng làm Tả tham tri Lại bộ sung đại thần Viện Cơ Mật.
Theo giới nghiên cứu lịch sử, đường hoạn lộ của Hà Tông Quyền tuy thăng tiến nhanh, nhưng cũng gặp khá nhiều gian nan, bất trắc. Rực rỡ nhất là giai đoạn từ năm 1822, sau khi ông đỗ Tiến sĩ đến năm 1831 khi ông phạm lỗi bị cách tuột hết mọi chức tước, trong vòng 10 năm mà ông liên tục được thăng chức và đổi bổ đến 12 lần.
Cứ vài năm, Hà Tông Quyền lại bị một lần quở trách hoặc giáng phạt với những lý do không rõ ràng hoặc thậm chí không liên quan. Như chuyện nhầm “Thanh Xuyên” thành “Thanh Châu”, hay chuyện khoa thi Hương năm 1834.
Khoa thi này, các quan trường Hà Nội chấm lấy đỗ 37 cử nhân, nhưng khi quyển thi được chuyển về kinh để duyệt thì 4 người bị truất xuống bậc tú tài vì văn chương tầm thường và một người bị hỏng tuột do bài phú trùng vận.
Do vậy, hai viên chánh và phó chủ khảo bị giáng 3 cấp, người có trách nhiệm tổ chức kỳ thi là Thượng thư Lễ bộ Phan Huy Thực cũng bị giáng chức với lý do là thiếu sáng suốt trong khi lựa chọn quan trường. Hà Tông Quyền không liên quan gì đến kỳ thi này nhưng cũng bị phạt 3 tháng lương vì là bạn thân của Phan Huy Thực.
Năm 1839, Hà Tông Quyền mất đột ngột khi mới 41 tuổi. Việc này, có một số tài liệu viết rằng, vua Minh Mạng định chọn người kế vị nên họp các quan trọng thần và Hoàng thân quốc thích đến bàn. Nhà vua hỏi ý Hà Tông Quyền, ông tâu rằng: “Xin bệ hạ lập Hoàng hậu trước, ngôi Hoàng hậu ổn định rồi thì ngôi Thái tử cũng ổn định”.
Phải biết rằng, triều Nguyễn đặt lệ “Tứ bất lập” - không lập Tể tướng, không lấy Trạng nguyên, không lập Hoàng hậu, không ban tước vương cho người trong hoàng tộc đang còn sống. Câu nói của Hà Tông Quyền tưởng sẽ vô thưởng vô phạt trong cuộc chiến giành quyền lực của các hoàng tử, nhưng không ngờ lại vô tình gây mầm thù oán với em trai vua: Kiến an công Nguyễn Phúc Ðài.
Nội tình việc này được giải thích rằng, một khi vua Minh Mạng chọn Hoàng hậu, thì người em này hết hi vọng lên ngôi thay anh. Bởi vậy Kiến an công đang khao khát được anh ruột nhường ngôi, nghe Hà Tông Quyền nói vậy chẳng khác nào dập tắt hi vọng nối ngôi.
Sau đó, vị Hoàng thân này mời Hà Tông Quyền đến nhà uống rượu, rồi lấy chuỳ đánh vỡ đầu, vứt xác trôi sông. Sau khi sự việc xảy ra, Kiến an công vào triều nói với vua anh Minh Mạng rằng: “Tông Quyền rất nịnh, thần đã giết và chôn rồi”. Vua Minh Mạng lệnh quan dùng thuyền đi biển chở quan tài Hà Tông Quyền về quê an táng.
Ðến năm Ất Tỵ (1845), con cháu làm lễ cải táng, mở hòm ra chỉ thấy quan tài không, bèn đến kinh đô tâu. Có chiếu chỉ rằng: “Tử thi bị tiêu hủy mau, nên như vậy”.
Vua Minh Mạng cho chở quan tài Hà Tông Quyền bằng đường biển về quê nhà chôn cất (ảnh phải). |
Sách “Đại Nam liệt truyện” chép rằng, sau khi Hà Tông Quyền chết, vua Minh Mạng có chiếu phủ dụ: “Nay nghe tin chết đi, mà Quyền làm quan thanh bạch, nhà không của thừa, rất là đáng thương. Chuẩn tặng làm Thượng thư bộ Lại, lại cấp cho gấm Trung Quốc, tiền, lụa để làm ma. Còn các con của Quyền, đợi khi nào trưởng thành, thì do bộ Lại dẫn vào ra mắt, sẽ cho bổ dùng. Lại sắc cho quan chức trách thời thường đến thăm hỏi người mẹ của Quyền. Hàng tháng cấp cho bạc, gạo, để nuôi cho đủ ăn hết đời”.