Những người ươm mầm khát vọng

GD&TĐ - Thầy nói tiếng Việt, trò nói tiếng Khmer… là khó khăn chung của giáo viên dạy học ở vùng khó...

Cô Thị Chanh Sóc The và học trò.
Cô Thị Chanh Sóc The và học trò.

Song bù lại thầy, cô đều cảm nhận được tình cảm ấm áp, thân thương và gắn kết từ phía học trò.

Ra đồng tìm trò về học

“Tôi dạy các em đọc, viết tiếng Việt, các em chỉ tôi nghe, nói tiếng Khmer, việc đổi vai khiến ai cũng vừa là thầy vừa là trò đã khiến tình cảm thầy trò trở nên gần gũi, thân thiết”. Đó là chia sẻ của thầy Nguyễn Phúc Sinh, Trường Tiểu học “D” An Cư, tỉnh An Giang.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, ngoài việc học, thầy Sinh phải phụ giúp gia đình gánh nước thốt nốt nấu đường kiếm tiền. Thấu hiểu nỗi vất vả cơ cực của cha mẹ, ngay từ nhỏ cậu học trò Sinh đã cố gắng học tập tốt và ước mơ trở thành thầy giáo. Và ước mơ đó đã trở thành hiện thực khi Sinh thi đỗ vào Trường Đại học An Giang hệ Cao đẳng Giáo dục Tiểu học khóa 33.

Sau 3 năm đèn sách, với bao cố gắng nỗ lực trau dồi kiến thức, ra trường, chàng trai trẻ xin về ngôi trường Tiểu học “D” An Cư thuộc xã An Cư, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang công tác. Anh đã được phân công trực tiếp giảng dạy kiêm Tổng phụ trách Đội. Đây là ngôi trường có tới 90% học sinh là người dân tộc Khmer.

Mới vào nghề, lại đến công tác ở một địa bàn tương đối khó khăn, những vất vả càng như nhân lên khi thầy Sinh chưa từng được học tiếng Khmer, mà đa phần học sinh lớp thầy chủ nhiệm lại không thông thạo tiếng Việt. Việc truyền dạy kiến thức thật sự “vướng mắc” khi thầy, trò giao tiếp bằng ngôn ngữ cử chỉ, hành động, nụ cười… Cũng may, trong lớp cũng có một vài học sinh thông thạo tiếng Việt nên đã được thầy giáo “trưng dụng” làm phiên dịch.

Sau một thời gian đứng lớp, thầy trò quen dần, việc học tập thuận lợi hơn, khoảng cách rút ngắn thì tình cảm thầy trò trở nên thân thiết. Càng tiếp xúc với các em, thầy Phúc Sinh càng đồng cảm với học trò bởi sự mộc mạc, chân thành của những con người miền quê lam lũ...

Ngoài giờ học, các em phải đi chăn bò, nhổ lạc phụ giúp gia đình. Có những em, đến ngày kiểm tra giữa học kì hoặc kiểm tra cuối năm vẫn bỏ học để đi làm với gia đình. Thầy Sinh và các thầy, cô giáo trong trường đã phải đi ra đồng tìm các em về làm bài kiểm tra.

“Năm đó, lớp tôi chủ nhiệm có em Chau Ly Hua ba mẹ làm việc tận Bình Dương. Em ở nhà một mình không ai quản lý giờ giấc ăn ngủ và nhắc nhở, quan tâm việc học hành nên sa đà vào chơi game và thường xuyên nghỉ học. Tôi đã phải đi tìm em ở quán game về, giảng giải, thuyết phục và dành thời gian kèm thêm cho em ở nhà để em theo kịp chương trình học...”, thầy Sinh chia sẻ.

Dành cho các em sự quan tâm, thương quý bằng cả tấm lòng nên các thầy, cô giáo nơi đây đã nhận được sự quý trọng, tin yêu của học trò, sự yêu mến nể trọng của phụ huynh. Cứ đến mùa dưa hấu thì các em đem đến trường tặng thầy cô mình những quả dưa ngon nhất, dịp lễ Tết là những đòn bánh tét chan chứa tình cảm.

Thầy giáo Nguyễn Phúc Sinh cùng học sinh.

Thầy giáo Nguyễn Phúc Sinh cùng học sinh.

Điểm trường lẻ từng ngày đổi mới

Dù là lúc phòng học dột, tường bong tróc, đường sục bùn đất khi mưa lớn… nhưng hơn chục năm qua, cô giáo dân tộc Khmer Thị Chanh Sóc The (sinh năm 1987) vẫn quyết tâm “bám” nghề dạy chữ tại xã vùng sâu Thạnh Yên của huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

Ngày đầu tiên đến nhận công tác, cô Thị Chanh Sóc The được nhà trường phân công dạy lớp 2, điểm Xẻo Tôm, Trường Tiểu học Thạnh Yên 1, thuộc xã Thạnh Yên. Điểm lẻ Xẻo Tôm có 4 lớp với 112 học sinh, nhưng đều là học sinh người dân tộc Khmer và hơn 90% thuộc các gia đình là hộ nghèo, cận nghèo và khó khăn.

Học sinh đến lớp không có dép để đi, không có áo trắng để mặc, còn rụt rè nhút nhát chưa thành thạo tiếng phổ thông để giao tiếp, lớp học một buổi/ngày. Có những em đã đến giờ đi học mà còn ở ngoài đồng bắt cá, mò ốc… hoặc ra rìa sông lớn, bắt vọp để phụ gia đình lo bữa ăn hàng ngày.

Vì là điểm lẻ nên cơ sở vật chất còn thiếu thốn, diện tích sân chơi nhỏ, chưa được bê tông hóa, mỗi khi trời mưa, các thầy cô phải tất tả dọn dẹp bùn đất để học sinh không bị lấm bẩn khi vui chơi. Cô Sóc The công tác được 2 năm ở Trường Tiểu học Thạnh Yên 1 thì trường có quyết định chia tách, thành lập thêm một trường có tên là Trường Tiểu học Thạnh Yên 3.

Mặc dù trường luôn nhận được sự quan tâm của các cấp và chính quyền địa phương nhưng do huyện nghèo, địa bàn rộng, lại có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống nên việc đầu tư, mua sắm trang thiết bị đồng bộ cho trường gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, đồ dùng dạy học của giáo viên chủ yếu do giáo viên tự làm bằng vật liệu sẵn có nên dễ bị hư hỏng.

Khó khăn là vậy, nhưng nhờ sự động viên, chia sẻ của đồng nghiệp, đặc biệt là tình cảm quý mến của học sinh và phụ huynh nơi đây, cô The đã vượt qua để nỗ lực truyền thụ kiến thức cho học trò qua từng bài giảng. Tranh thủ giờ ra chơi, cô còn ân cần trò chuyện, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng em để cô trò thêm gần gũi, chia sẻ và kịp thời quan tâm, hỗ trợ các em.

Thời gian cứ thế trôi qua, Trường Tiểu học Thạnh Yên 3 giờ đây đã được đầu tư trang thiết bị hiện đại theo quy chuẩn và được Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện U Minh Thượng chọn làm “trường điểm” dạy theo Mô hình Trường học mới (VNEN).

Các em học sinh hoàn cảnh khó khăn cũng được hỗ trợ đồ dùng học tập, đồng phục... Nhờ thế, tình trạng bỏ học giữa chừng đã được giải quyết, tỉ lệ chuyên cần cao. Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ học tập tốt hơn giúp nâng cao chất lượng dạy và học nên trong những năm học vừa qua, nhiều em học sinh đã đạt được thành tích cao trong các cuộc thi viết chữ đẹp, giải toán bằng tiếng Anh, giao lưu “tiếng Việt của chúng em”…

“Trong giờ dạy, lúc giảng bài hay những lúc tôi đặt câu hỏi, nhìn mãi mà không thấy một cánh tay nào giơ lên, chỉ thấy những ánh mắt nhìn tôi ngơ ngác vì không hiểu thầy đang nói gì. Tôi hoang mang lắm.

Thật may là có được mấy em rành cả tiếng Việt và tiếng Khmer, các em đã giải nguy cho thầy. Các em dịch các từ, các câu cho các bạn hiểu và dạy thầy nói một số từ thông dụng để nhắc nhở hoặc nêu yêu cầu”, thầy Phúc Sinh nhớ lại.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ