Nhiều vấn đề cần xem xét lại từ Luật Giáo dục nghề nghiệp

GD&TĐ - So với Luật Dạy nghề trước đây, việc ra đời Luật Giáo dục Nghề nghiệp là một bước thay đổi rất lớn trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Tuy nhiên nhận xét trên sẽ phù hợp nếu Luật chỉ dừng lại ở lĩnh vực giáo dục nghề hay dạy nghề (Vocational Education).

Nhiều vấn đề cần xem xét lại từ Luật Giáo dục nghề nghiệp

TS Nguyễn Viết Khuyến - nguyên Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT), Ủy viên thường trực Hiệp hội các trường ĐH, CĐ Việt Nam - đưa ra nhận định này và cho rằng: Việc đưa vào phạm vi điều chỉnh của luật này nhiều lĩnh vực của giáo dục nghề nghiệp nhưng lại theo cùng một khuôn mẫu của giáo dục nghề kèm theo hàng loạt nhầm lẫn sẽ dẫn tới một số hệ lụy.

Cụ thể, phá đi tính hệ thống vốn có của giáo dục, gây khó cho cơ chế liên thông đại học, làm méo mó cơ cấu nhân lực của đất nước, gây khó cho việc ban hành các chính sách đãi ngộ nhân lực và cho việc công nhận trình độ tương đương về đào tạo với các quốc gia khác theo tinh thần hội nhập quốc tế.

Kết quả là nếu không kịp thời điều chỉnh những nội dung nhầm lẫn của Luật Giáo dục Nghề nghiệp thì trong thời gian tới Luật sẽ gặp khó khăn khi đi vào cuộc sống.

TS Lê Viết Khuyến chỉ ra sáu nhầm lẫn cơ bản trong Luật Giáo dục Nghề nghiệp như sau:

Quan niệm "Giáo dục nghề nghiệp"

Đầu tiên, theo TS Lê Viết Khuyến, đó là sự nhầm lẫn giữa Giáo dục nghề nghiệp vốn được xem là một phân hệ giáo dục chịu trách nhiệm đào tạo nhân lực (có thể thuộc nhiều bậc học, cấp học hay trình độ học khác nhau) với Giáo dục nghề nghiệp là một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân, thể hiện ở Khoản 1 Điều 3 Luật GDNN. Nhầm lẫn này trước đó cũng đã mắc phải ở Luật Giáo dục (Khoản 2 Điều 4).

Nhầm lẫn trên ở Luật Giáo dục Nghệ nghiệp đã dẫn tới việc loại bỏ trình độ cao đẳng ra khỏi bậc học đại học (Higher Education/ Tertiary Education) thể hiện ở các Điều 76&77 Luật Giáo dục Nghệ nghiệp, đi ngược với thông lệ quốc tế hiện nay (tại Phân loại tiêu chuẩn quốc tế về giáo dục ISCED2011 được UNESCO ban hành năm 2011).

Trong lịch sử giáo dục Việt Nam đã có lúc xuất hiện trong giới quản lý ý định tách cao đẳng ra khỏi Giáo dục đại học để đưa về Giáo dục nghề nghiệp nhưng cuối cùng không thể thực hiện được vì bị đa số cộng đồng giáo dục phản đối.

Quan niệm Giáo dục nghề nghiệp chỉ bao gồm các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, theo TS Lê Viết Khuyến cũng chưa thật đầy đủ. Thực ra đây là định nghĩa cho Giáo dục nghề. Đối với Giáo dục nghề nghiệp cần có cái nhìn rộng hơn. Theo đó đào tạo bác sỹ, kỹ sư, giáo viên, nhà khoa học, nhà báo,...cũng thuộc giáo dục nghề nghiệp.

Mục tiêu đào tạo giữa giáo dục nghề và giáo dục chuyên nghiệp

Thứ đến là nhầm lẫn giữa Giáo dục nghề hay Dạy nghề ( Vocational Education) với Giáo dục chuyên nghiệp ( Professional Education ) về mục tiêu đào tạo.

TS Lê Viết Khuyến cho rằng: Theo thông lệ chung thì Giáo dục nghề đào tạo nhân lực trực tiếp tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, tức là đào tạo thợ và nhân viên, trong khi Giáo dục chuyên nghiệp đào tạo chuyên gia (kỹ thuật viên, cán sự, giáo viên, kỹ sư, chuyên viên, bác sĩ, luật sư,…).

Việc nhầm lẫn mục tiêu đào tạo dẫn tới định hướng hợp nhất giữa Giáo dục nghề với Giáo dục chuyên nghiệp làm méo mó cơ cấu nguồn nhân lực cho CNH, HĐH đất nước.

Theo thông lệ quốc tế, cùng một trình độ đào tạo (trong Khung trình độ quốc gia) có thể có nhiều loại chương trình khác nhau, có mục tiêu đào tạo và cấu trúc nội dung khác nhau, thích ứng với việc đào tạo ra nhiều loại nhân lực khác nhau.

Không thể có một loại chương trình cao đẳng được sử dụng chung cho nhiều mục tiêu đào tạo khác nhau như: giáo viên trung học cơ sở, kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật bậc cao,...như ở Luật Giáo dục Nghề nghiệp.

Nhầm lẫn đó cũng dẫn tới sự khập khiễng trong thiết kế cấu trúc của bộ máy quản lý hệ thống giáo dục cả ở tầm quốc gia cũng như ở tầm địa phương.

Nhầm lẫn giữa trình độ đào tạo với trình độ tay nghề

Nhầm lẫn thứ 3 được TS Lê Viết Khuyến chỉ ra, đó là sự nhầm lẫn giữa trình độ đào tạo (level) với trình độ tay nghề.

Theo ISCED 2011 trong giáo dục có 9 trình độ là: mầm non (0), tiểu học (1), trung học cơ sở hay sơ trung (2), trung học toàn phần (3), sau trung học, dưới đại học (4), cao đẳng (5), cử nhân (6), thạc sỹ (7) và tiến sĩ (8).

Tuy nhiên, định nghĩa trình độ của Giáo dục Nghề nghiệp (Khoản 2 Điều 4) của Luật Giáo dục Nghề nghiệp chủ yếu theo trình độ tay nghề của Giáo dục nghề.

Trình độ "cao đẳng" ở Luật Giáo dục Nghề nghiệp thực ra chỉ tương ứng với trình độ 4 của ISCED 2011. Ở nhiều nước người học trình độ này thường chỉ được cấp văn bằng Diploma, không dược cấp văn bằng Associate Degree (cao đẳng).

Nhầm lẫn trong quy định về điều kiện tuyển sinh, thời gian đào tạo

Nhầm lẫn khi đưa ra các quy định về điều kiện tuyển sinh (Điều 32), về thời gian đào tạo (Điều 33) - theo TS Lê Viết Khuyến, những quy định này tại Luật Giáo dục nghề nghiệp chỉ phù hợp với Giáo dục nghề, không phù hợp và nói chung là thấp thua so với các qui định quốc tế.

Điều này gây khó khi xác lập mối quan hệ tương đương giữa hệ thống văn bằng giáo dục – đào tạo của Việt Nam với thế giới ( tức là sẽ không được thế giới công nhận rộng rãi ).

Quy định tốt nghiệp CĐ được công nhận là cử nhân/kỹ sư thực hành 

Thứ năm, việc người tốt nghiệp cao đẳng được công nhận là cử nhân thực hành hoặc kỹ sư thực hành tại Khoản 1 Điều 38 Luật Giáo dục Nghề nghiệp, theo TS Lê Viết Khuyến, là một quy định vũ đoán, không có trên thế giới và sẽ gây nhiều hệ lụy khó lường (cả ở trong nước và thế giới).

Theo quy định quốc tế thì người có trình độ 5 (Associate Degree - Cao đẳng) chỉ được nhận danh hiệu kỹ thuật viên hoặc thợ bậc cao. Theo qui định cả quốc tế lẫn Việt Nam danh hiệu kỹ sư chỉ được trao cho những ai đã qua trình độ cử nhân kỹ thuật (thời gian đào tạo 4 năm), sau đó phải học thêm ít nhất 1 năm theo hướng chuyên sâu (như đang áp dụng tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội), hoặc phải qua hoạt động đúng nghề nghiệp được đào tạo một số năm để được hiệp hội kỹ sư công nhận (như quy định ở nhiều nước hiện nay).

Trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta không thể có đồng thời cả “kỹ sư 5 năm” lẫn “kỹ sư 2 năm”!

Người đứng đầu toàn quyền tổ chức biên soạn chương trình đào tạo

Cũng theo TS Lê Viết Khuyến, việc cho người đứng đầu các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được toàn quyền tổ chức biên soạn hoặc lựa chọn và phê duyệt các chương trình đào tạo ( như tại Khoản 2 Điều 34) là một quyết định quá phiêu lưu và chắc chắn sẽ đưa tới một đội ngũ nhân lực "không chuẩn" cho quốc gia.

"Kinh nghiệm thế giới cho thấy, để khắc phục tình trạng "trăm hoa đua nở" mọi chương trình đào tạo từ trình độ cao dẳng trở xuống đều phải được các trường xây dựng xuất phát từ các "chuẩn chương trình" hay "chuẩn năng lực" do nhà nước quy định" - TS Lê Viết Khuyến phân tích.

Luật Giáo dục Nghề nghiệp đã được Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 27/11/2014 (với tỉ lệ phiếu ủng hộ trên 53%). Theo quy định Luật này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2015.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ