Mấy năm trước, khi còn làm biên tập chương trình Tiếng thơ của Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi có mời nhà thơ Phạm Đình Ân chọn và chia sẻ về một tác phẩm tâm đắc của mình. Ông hồ hởi nhận lời, hẹn sang tòa soạn Báo Văn nghệ để thu thanh.
Đó là một buổi trưa Hè đầy nắng. Trong không gian im ắng có phần ngột ngạt, giọng ông đọc thơ khỏe và vang:
“Các ý nghĩ dào lên trôi bập bềnh
qua suốt các ban trưa
Hiển hiện nhiều mặt người
hiển hiện nhiều cảnh việc
muốn ngủ mà không ngủ được
ý nghĩ vây quanh, ý nghĩ giày vò”.
“Nắng xối đỉnh đầu”! - Ông đã chọn bài thơ này để bày tỏ về quan niệm sống và viết của mình: “Tuy đã đi qua tuổi thanh xuân từ lâu, nhưng tôi thấy mình như vẫn hôm nay “Nắng xối đỉnh đầu” của những ban trưa phồn vinh”.
Từ buổi đó, mỗi lần nhìn thấy ông từ xa, tôi lại nhớ đến bài thơ này, phần nào nhận ra sự vất vả ẩn trong dáng đi nhanh nhẹn, gương mặt nghiêm nghị, cả tác phong luôn chỉn chu, đúng hẹn.
Ở góc nhìn từ xa ấy, mái tóc điểm bạc của ông bắt nắng, thứ ánh nắng chang chang của buổi trưa Hè.
Kiên định với lẽ sống của mình
Nhà thơ Phạm Đình Ân sinh năm 1946 tại quê mẹ Phủ Lý - Hà Nam, quê cha Nam Định, từ nhỏ ở Hưng Yên rồi vào Thanh Hóa cư trú lâu dài. Các tập thơ đã in: “Nắng xối đỉnh đầu” (1990), “Những hoàng hôn ngẫu nhiên” (1990), “Hương rễ” (2000), “Phấn hoa bay” (2000), “Vòng quay” (2013), “Dọc đường thơ” (tuyển thơ – 2019). Ông cũng là một trong những tác giả nặng lòng với văn học thiếu nhi qua hàng chục đầu sách ở thể loại thơ và văn xuôi, có tác phẩm được đưa vào sách giáo khoa. Những trang viết của ông luôn lấp lánh vẻ đẹp của sự trung thực, lòng bao dung và tình yêu sự sống.
“Tôi làm thơ từ đầu những năm 60 thế kỷ trước, in ở báo tỉnh nhà. Đến đầu năm 1968, dịp Tết Nguyên đán, khi đang học năm thứ ba đại học, được in thơ lần đầu trên Báo Văn nghệ - cũng là lần đầu công bố sáng tác thơ trên ấn phẩm ở Trung ương”. (Phạm Đình Ân)
“Nắng xối đỉnh đầu” - Bài thơ cũng là nhan đề tập thơ đầu tay được xuất bản sau rất nhiều năm Phạm Đình Ân đi và viết. Có thể coi đó là tập thơ được in muộn, bởi ở tuổi thiếu niên ông đã say mê viết lách, lại được đào tạo chuyên ngành Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Khi tốt nghiệp, ông được phân về làm việc tại Báo Nhân dân, ngay sau đó là những chuyến thực địa dọc miền Trung giữa khói lửa chiến tranh ác liệt.
Hăng hái thâm nhập thực tế lao động và chiến đấu của quân và dân, mang tinh thần phụng sự dấn thân cùng những kiến thức tích lũy trong nhà trường để Phạm Đình Ân bước vào đời.
Những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi chiến tranh lan rộng cả ba miền, Phạm Đình Ân đã ghi dấu ấn với “Đi dọc miền Trung”, một bài thơ vừa có tính thời sự, vừa giàu tính sử thi, được viết trong tâm thức văn hóa, lòng biết ơn Tổ quốc và nhân dân. “Đi dọc miền Trung” gợi nhớ hơi thơ phóng khoáng của thời Trần Mai Ninh:
“Đi dọc miền Trung
mới thấy dải đất này không thể nào
hẹp hơn được nữa
Tưởng có thể một tay vục vào biển cả
Bàn tay kia vươn tới dãy Trường Sơn
Bên này đường số Một là cát trắng
miên man
Càng đi càng hòa mình vào cát
Cái màu trắng cứ hừng lên nhức mắt”.
“Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi”. Câu thơ của nhà thơ Xuân Diệu năm nào cũng là quan niệm sống và viết của đội ngũ văn nghệ sĩ thời chiến. Phạm Đình Ân không là ngoại lệ. Thế nên, trong những trang thơ được xuất bản sau này luôn có dấu ấn của nhiều chuyến đi khắp trong Nam ngoài Bắc.
Đi để hiểu Tổ quốc mình, nhân dân mình. Đi để thấm thía cái nắng nóng khắc nghiệt mà nồng hậu, cái rét sắc nhọn thấu xương mà đằm mặn ngọt ngào, vị gừng cay và muối mặn, khế chua, sung chát, bồ hòn đắng, trầu nồng say. Đi để trải nghiệm, thấu hiểu và dần chấp nhận, dung hòa mọi trạng thái dù đối nghịch trong một lẽ cân bằng.
Và khi đạt được trạng thái quân bình thì cách nhìn cuộc sống, cư xử với cuộc sống của ông vừa sâu sắc, vừa bao dung. Những vất vả, không như ý của bản thân cũng thành nhẹ nhõm. Vậy nên, trong đời cũng như trong thơ luôn có một Phạm Đình Ân chân thực, nhiệt thành và ấm áp, dẫu “đỉnh đầu nắng xối chan chan” vẫn kiên định với lẽ sống của mình.
Phạm Đình Ân là người của bàn viết, không thuộc bàn nhậu hay những cuộc tranh luận, tuyên ngôn. Ông lặng lẽ làm việc, lấy tác phẩm là thước đo năng lực sáng tạo, dùng thơ để bộc lộ những mối quan tâm trước các vấn đề nhân sinh, thế sự.
Tập “Vòng quay” (xuất bản năm 2013) in đậm dấu ấn này, cả về giọng điệu thơ cũng như thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả. Ở đó trĩu nặng niềm nhân thế, những góc nhìn đa diện về số phận con người trong vòng quay nhân sinh chạy theo lợi ích, hư danh, tha hóa và bằng lòng tha hóa.
“Vòng quay” đã nhận được những đánh giá xác đáng của nhiều nhà thơ, nhà phê bình tên tuổi. Ở đây, sự tối giản, tiết chế về câu chữ, hình ảnh, sự nâng cấp về ý thơ, hình tượng thơ được tác giả đặc biệt lưu ý. Ông đưa ra những quan sát, ghi chép lại và buộc người đọc phải ngẫm ngợi, đôi khi không ngừng ngẫm ngợi:
“Trơ mặt
đều đều kêu nhạt tanh
tích tắc
tích tắc
Ngậm miệng
Từ từ nuốt đứt những trăm năm”.
(Đồng hồ)
Câu thơ cuối buông nhẹ vậy, mà khiến không ít người phải giật mình.
Tối giản và gợi mở là một đặc tính vốn có trong thơ Phạm Đình Ân, cho thấy sự sâu sắc, trầm lặng, hướng nội nơi ông. Ví như bài “Sợi tóc” – một trong những sáng tác đưa tên tuổi Phạm Đình Ân đến gần độc giả:
“Em tặng tôi sợi tóc của em
Rồi ngày tháng vèo trôi,
em không nhớ nữa
Năm mươi năm sau
khi tìm được về chốn cũ
tôi gặp một bà già tóc bạc
bà chẳng biết tôi
tôi tặng bà sợi tóc
Bà khóc
Sợi tóc vẫn còn đen”.
“Bãi bể nương dâu” vốn là cụm từ cửa miệng, song để thấm thía và thể hiện được một cách thấm thía thì chính bản thân người nói/ người viết cũng phải băng qua bãi bể nương dâu ấy.
Băng qua rồi thì góc nhìn về nhân sinh, về cuộc sống lại thêm phần ấm áp. Phạm Đình Ân là một người như vậy. Thơ ông luôn có mặn, có ngọt, có đắng, có chát chua, song luôn được dung hòa, như cuộc sống vốn vậy và cần phải vậy, để vươn lên một cách tích cực, để bao dung nẩy mầm trên thói đời bạc bẽo:
“Rắc muối vào vô cảm
Rắc muối vào vô ơn
Xót tan lòng muối xát
Hạt đổ vào vết thương
Ngẫm lẽ thường mặn nhạt
Muối biển đời trắng tinh
Ngày đầu năm mua muối
Cầm lên tay, giật mình”.
(Đầu năm mua muối)
Gắn bó với những biến đổi của đất nước
'Dọc đường thơ' - Tuyển thơ in năm 2019 của nhà thơ Phạm Đình Ân. Ảnh: AT. |
Từ tập thơ “Nắng xối đỉnh đầu”, “Những hoàng hôn ngẫu nhiên”, đến “Hương rễ”, “Phấn hoa bay” và “Vòng quay”, hành trình thơ Phạm Đình Ân gắn bó với những biến đổi của đất nước, của đời sống văn học nghệ thuật: Những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ rồi lại tiếp hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, phía Nam, qua 10 năm bao cấp rồi ùa vào thời đổi mới.
Thơ ông thời kỳ đầu là tiếng nói của cái tôi hòa vào nhịp thở sống và chiến đấu của dân tộc. Bên cạnh đó cũng có những phút riêng tư trong nỗi nhớ gia đình, phút khắc khoải tha hương, niềm thương cha cùng ám ảnh mồ côi mẹ.
Sau đổi mới, cái tôi ấy mạnh mẽ hơn, khao khát bộc lộ chính mình với tuổi trẻ, tình yêu, với những vấn đề cuộc sống, thế sự. Đằng sau vẻ ngoài nghiêm nghị là một tâm hồn nhạy cảm trước những thay đổi dù rất nhỏ, nằm sâu trong nội tâm người đối diện.
Ông cũng đặc biệt nhạy cảm với những biến đổi về giá trị sống, khi thời đại và con người đã khác. Bài “Gai táo sắc” ông viết năm 1989:
“Hôm qua ra ngõ gặp anh hùng
hôm nay ra đường
buồn và sợ
To, mọng và ngọt
cây vườn nhà cứ trĩu quả vô tâm”.
Phạm Đình Ân cũng sớm nhận ra tình cảnh bi và hài, anh hùng và tiểu nhân, gian manh và lương thiện. Ông từ chối lối sống “đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ”, vo mình cho tròn lại để an toàn, từ chối lối sống vụ lợi vị kỷ, song chính ông cũng dằn vặt, khổ tâm và bất lực, muốn thoát mà không thể thoát.
Đến thời điểm những năm 90 của thế kỷ 20 và sau này, khi văn học nghệ thuật thực sự được cởi trói, các cụm từ như “tự do ngôn luận”, “giải thiêng” được nhiều văn nghệ sĩ tâm đắc, thì Phạm Đình Ân vẫn kiên trì với những giá trị truyền thống của dân tộc, những giá trị đã được xác lập qua hàng thế kỷ, những giá trị được bảo vệ bởi sự hy sinh của bao thế hệ. Ông thẳng thắn bày tỏ:
“Nhân danh đổi mới
họ hạ bừa các thần tượng
mà quên rằng
chúng ta đang đứng trên vai
những anh hùng
Nhân danh đổi mới
họ bốc rác hôm nay hắt vào ngày trước
mà quên rằng
hôm qua sinh ra hôm nay
hiện tại đang trở thành quá khứ”.
(Thơ cho ngày mùng 5 Tết)
Ông cũng không chấp nhận thơ lẩn vào cái riêng tư, tôn vinh quá đà cái riêng tư:
“Tại sao cứ mãi mãi tự ru mình
lẩn vào yêu đương nhỏ mọn
lẩn vào cô đơn mượn vay
lẩn vào buồn đau làm dáng
lẩn vào khô xác chữ, câu?”.
(Thơ ơi - 1999)
Tập thơ viết cho thiếu nhi 'Thềm trăng trải chiếu' của nhà thơ Phạm Đình Ân. Ảnh: AT. |
Ông chất vấn thơ: “Tại sao không biết đến tệ nạn phá rừng/ không biết đến hạn hán và bão lụt/ không biết đến tệ nạn tham nhũng/ không biết đến anh hùng/ không biết đến nhân dân?”.
Những câu hỏi qua nhiều năm, đến hôm nay vẫn đặt ra với nhiều người vốn luôn mong muốn thơ dự phần vào đời sống này, mang hơi thở và thông điệp, tình cảm, suy tư thế sự.
Nhà thơ không phải là người tỉa tót câu chữ. Nhà thơ phải thực sự hòa vào nhịp lo âu, hạnh phúc, bất an của dân tộc, của nhân dân.
Thế kỷ 21 này tưởng bình yên mà không bình yên. Những cuộc xung đột vũ trang vẫn diễn ra, không dừng ở biên giới hai đất nước. Trong lòng người cũng thường trực nỗi bất an. Càng về sau, thơ Phạm Đình Ân càng kiệm lời, càng sâu sắc trong những phát hiện, tự vấn:
“Đang nằm trưa
Ô hay
Bão giông!
Đang nằm đêm
Ô hay
Sét đánh!
Đang nằm nghìn năm
Ô hay
hóa sinh”.
(Đang nằm)
Để khép lại bài viết nhỏ này, xin được trích dẫn bài thơ “Đêm khóc một mình” được nhà thơ Phạm Đình Ân viết năm 1989:
“Chợt thức giữa đêm
Đen
nước mắt thấm gối
Thế gian đang say giấc
bình yên
một mình thức, nằm, khóc
Nước mắt thấm gối
chợt thức giữa đêm
đen…”.
Ở lớp nghĩa bề mặt, ai trong chúng ta cũng từng trải qua những lúc một mình, khóc một mình, khi cả thế gian đang say ngủ, người thân thiết nhất cũng khó sẻ chia. Ở một lớp nghĩa khác, những thao thức một mình tưởng cô đơn mà cần thiết. Cần thiết để tạo thêm nội lực. Cần thiết để từ đó, những suy tư bước vào. Còn suy tư thì còn sáng tạo. Điều ấy, với người viết, càng trở nên cần thiết.
“Thơ của Ân không thể đọc lướt qua chỉ một lần. Cứ đọc thêm và đọc thêm, qua lớp vỏ ngôn ngữ có cảm giác cưng cứng ấy, sẽ vỡ ra nhiều điều lý thú và dễ chịu” - Phạm Ngọc Luật.