1.
Nhiều đêm, khi đã chìm vào giấc ngủ, mớ ký ức mong manh còn sót lại bỗng cựa mình. Những lúc như vậy, tôi nghĩ rằng, với Tâm - đứa em nuôi duy nhất của mình, cũng là một cơ duyên!
Cơ duyên đầu tiên của chúng tôi đến trong một bữa mưa dầm tháng Sáu. Đơn vị vừa hành quân qua một đoạn đường dài và dừng chân nghỉ đêm ở một ngôi làng hoang tàn vì pháo giặc.
Một vài thanh niên lác đác trở về thám thính tình hình. Bằng mớ tiếng Việt pha Khmer lơ lớ, họ kể rằng làng vừa xảy ra cuộc giao tranh, và quân Khmer Đỏ đã không nương tay, đẩy những loạt pháo vào ngôi làng, kể cả những ngôi chùa mà nhiều người dân chạy vào trú ngụ.
Đêm xuống, mưa lắc rắc làm cây lá lao xao. Khó mà đoán được rạch ròi những âm thanh trong mớ tiếng mưa và tiếng lá. Tôi đã chìm vào giấc ngủ sâu, nhưng sao vẫn nghe mồn một tiếng rên rỉ từ xa xa vọng lại, lúc dày lúc thưa.
Tiếng rên ngày một rõ ràng hơn, làm cả đơn vị hoang mang. Đến khi mọi người ai cũng nghe thấy cả, thì biết chắc rằng không phải ma rừng nhát, mà là tiếng người. Tiếng rên vẫn không thôi dứt và càng đi về phía ngôi chùa càng nghe thấy rõ hơn.
Khi gần đến ngôi tháp cổ cách chùa vài trăm mét thì bắt được chắc chắn tiếng rên phát ra từ trong lòng tháp. Những khẩu súng được cầm chắc hơn. Thật tình lúc ấy, tôi vẫn chưa phân định rõ rành đây là tiếng quỷ ma hay tiếng của bọn trinh sát Khmer Đỏ?
Lần vào trong tháp thì phát hiện một đứa trẻ khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, tóc bết lại, mặt mày xanh xao; tay nó đang cầm chắc đầu gối, rọi đèn vào kỹ mới thấy lúc nhúc những con giòi trăng trắng rờn rợn người. Đứa trẻ hốt hoảng gọi “mẹ ơi, mẹ ơi”.
Tôi cố gắng trấn an nó từ từ, đứa trẻ dần dần bớt đi sự lo âu. Rất lâu sau mới chỉ nói được rằng nó đã trốn ở đây ba ngày, chỉ ăn lá cây mà sống. Hơi thở nó như cũng bết lại, cùng với những tiếng át đi của mưa làm chúng tôi không còn nghe rõ nữa.
Anh em trong đơn vị thay nhau cõng đứa trẻ về trạm quân y đang đóng cách đó vài cây số. Hơn tuần sau, khi vết thương đã lành và đứa trẻ đã tỉnh táo hơn. Nó kể với tôi rằng nó tên Chau Tâm, là đứa con lai, cha Khmer, mẹ là người Việt. Cha mẹ nó trú trong chùa nên bị pháo dập.
Nó may mắn sống sót và đã lôi xác cha mẹ đem ra phía sau chùa chôn, rồi trốn trong ngôi tháp. Một sự sống lạ kỳ khi đứa trẻ bị thương và đói khát vẫn có thể sống suốt gần ba ngày qua, làm tôi cảm thấy vừa đau xót vừa thương cảm làm sao. Tôi hỏi:
- Người ta đã trở về làng nhiều rồi. Lành bệnh, em trở về làng được rồi đó.
Tâm bỗng dưng rưng rưng ngấn lệ, nó nhanh nhảu cầm lấy tay tôi:
- Em không ở lại đây đâu, ba mẹ, cô bác em chết hết rồi, em sợ bom đạn lắm. Anh cho em theo các anh, cho em theo các anh nha anh.
Tôi nói, “sợ bom đạn thì nên ở lại đây với xóm làng, đi theo anh bom đạn còn dữ hơn”. Tâm không nói thêm gì, nó ngồi cứng đờ ra, nhưng bao nhiêu lời lẽ đã nghẹt cứng lại nơi cổ họng.
2.
Mấy hôm sau thì Tâm trở về làng. Sáng đó, nó về thì trưa đến, một vị sư dắt tay Tâm đến nơi chúng tôi. Sư đứng trang nghiêm, Tâm bỗng dưng quỳ xuống, xin hãy nhận Tâm vào đơn vị để nó có được miếng cơm và khôn lớn. Tôi đỡ tay Tâm đứng dậy, lòng nặng trĩu một nỗi niềm đau đáu.
Câu chuyện được tôi trình bày với thủ trưởng, suy nghĩ hồi lâu, thủ trưởng nói, thôi cứ nhận nó vào, dù sao Tâm biết nói cả hai thứ tiếng thì cũng đỡ đần cho đơn vị. Tôi nhận là em nuôi, làm hồ sơ lý lịch cho Tâm được mấy hôm, thì đơn vị có lệnh chuyển quân.
Lúc ra đi, Tâm cứ nhìn mãi lại phía sau lưng, nơi ngôi làng quê nội với những cây cổ thụ bị pháo chém cụt đầu, những ngôi tháp cổ uy nghiêm bị đạn bắn nham nhở và ngôi chùa linh thiêng giờ thành đống gạch đá nằm im lìm như đang ôm bao nỗi niềm hóa khói.
3.
Tâm theo đơn vị cũng gần một năm, bắt đầu trổ mã cao lớn và dạn dĩ. Tâm có trí nhớ về những nơi nó đi qua, một cách lạ thường. Tâm cũng là đứa gan góc, không ngại gian khổ cũng không sợ đau đớn.
Có lần nó đánh con rắn hổ mây dài gần hai thước, khi con rắn đã ngoạm vào tay, nó vẫn cố cầm con rắn, đập đầu con rắn vào trong đá cho đến khi chết, rồi cầm vậy về đơn vị. May mà anh em đưa nó đến nhà ông thầy thuốc núi gần đó điều trị suốt cả tuần, chứ không thôi nó đã chết ra ma.
Mấy hôm ở nhà ông thầy thuốc, Tâm nằm như chết, rên rỉ gọi tên tôi. Nó mấp máy đôi môi nhưng đôi khi chỉ hớp được chút cháo đơn vị mang cho. Cha con ông thầy tận tình chăm sóc đến lúc Tâm khỏe hẳn. Nó vẫn thường hay nói, đời nó mang ơn đơn vị và ông thầy thuốc không biết bao giờ mới trả hết được.
Tâm còn có cảm tình đặc biệt với đứa con gái của ông thầy thuốc. Tôi biết chuyện, nửa mừng vui mà cũng nửa lo âu. Tối nằm ngủ bên cạnh, tôi nói với Tâm, “chinh chiến đang hồi đổ lửa, anh Hai cũng lo cho mầy, ráng đến khi yên bình rồi, anh sẽ cưới vợ cho mầy, sẽ làm đám đàng hoàng tử tế”. Tâm im im nhưng qua đôi mắt sáng rực, tôi tin lòng nó đang mừng vui như lượm được vàng.
Sau đó không lâu đơn vị lại di chuyển. Lần này, chúng tôi đóng quân gần một mé rừng. Nơi đây, địa hình tương đối phức tạp và có vẻ như có điều gì đó bất an trong lòng. Tâm cũng nói với tôi rằng, nó thấy bụng cứ lo lo. Nhưng nó không có chút sợ hãi nào. Nó tin rằng chiến thắng sẽ không xa.
Không lâu sau khi đến đây, Tâm đi công tác xa trở về qua suối, nó và hai chiến sĩ khác bị phục kích. Tâm may mắn thoát chết. Nó cõng từng người đưa ra đến mé rừng rồi về đơn vị báo tin. Trời chạng vạng tối, chúng tôi làm thủ tục mai táng anh em ở tại mé rừng. Tâm vừa khóc vừa đào huyệt, tôi cảm tưởng rằng, nó không biết mệt. Mặc dù những giọt nước mắt vẫn không thôi rơi trên lòng đất lạnh.
Sau lần đó, Tâm có những biểu hiện khác lạ. Nó ít nói hơn và dường như đang giấu kín nỗi niềm gì đó. Tôi không biết Tâm có nuôi nỗi sợ nào trong lòng hay không, nhưng cứ mỗi khi cơn mưa rừng vừa đến là Tâm lại lặng im không nói lời nào.
Đôi mắt nó đăm chiêu. Tôi càng để ý Tâm nhiều hơn, thì nó lại càng né tránh. Một lần nửa đêm, khi đơn vị đã ngủ hết, tôi thấy Tâm và Hùng, cũng cùng trang lứa với nhau, ra khỏi lán.
Bám theo, tôi nghe được trong cuộc trò chuyện đó, hai đứa rủ nhau trốn về xuôi, về nơi nhà ông thầy thuốc núi. Lòng tôi như lửa đốt, vừa giận mà vừa kiềm chế lại để tìm cách giải quyết. Nhưng chưa kịp, thì gần sáng hôm sau, đơn vị bị phục kích trước giờ chuyển quân không lâu.
Trận đụng độ tương đối bất ngờ, cả hai bên đều có thương vong. Hùng bị thương ở gần tim, hơi thở Hùng mấp máy không lâu thì tắt, ngay trong lúc nó vẫn còn nóng hổi trong tay Tâm. Hai đồng chí khác cũng hy sinh. Đơn vị được lệnh tiến lên truy quét.
Tâm xin tôi cho ở lại cùng các anh em Chính sách để chôn cất Hùng. Tôi đồng ý, Tâm hứa chôn cất Hùng xong, nó sẽ tìm cách trở về đơn vị ngay. Lòng tôi cũng có chút lo âu, nhưng giao Tâm lại cho Ban Chính sách ở phía sau, tôi cũng phần nào yên lòng.
Nhưng ròng rã suốt cả mấy tháng sau, khi tôi trở lại mé rừng, một hàng mộ cỏ vừa mới phủ xanh, nhưng vẫn không tìm được tin tức gì về Tâm. Anh em Chính sách nói, hôm đó chôn cất vừa xong, thì bị một đám lính Khmer Đỏ phục kích.
Anh em không kịp chống trả, nên phải rút nhanh. Trong lúc đêm đen và bị đánh úp, không biết Tâm đã lẩn trốn nơi nào, trong khi Tâm chỉ có duy nhất cái len của đơn vị. Tâm đã biến mất một cách lạ kỳ!
Tôi giận Tâm vô cùng, tại sao Tâm lại đào ngũ ngay lúc này? Tôi quyết tâm trước ngày về nước, tìm về nơi ông thầy thuốc núi. Nhà ông vừa mới gả đứa con gái đi xa. Ông nói con ông theo chồng về U Minh Miệt Thứ xa xôi lắm, ông cũng không biết rõ nơi đó là ở đâu.
Còn Tâm, ông quả quyết rằng sau lần khỏe bệnh trở về đơn vị, Tâm chưa hề đến đây. Mặc dù trước ngày cưới, con ông có nhờ người nhắn gửi mời Tâm về chơi, nhưng nó vẫn bặt tăm. Và mọi tin tức về Tâm kể từ đó cũng không còn, như một sợi dây bị cắt đi một cách phũ phàng ngang trái.
4.
Bốn mươi năm sau ngày Tâm rời đi, tôi và anh em bộ phận Chính sách năm nào, trở về chiến trường xưa để tìm và đưa anh em mình về đất mẹ. Dấu vết mé rừng xưa không còn bất cứ manh mối nào; bởi con đường lớn được mở ngang qua, và nhà cửa đông đúc.
Cứ nghĩ rằng sẽ bó tay, nhưng lần mò suốt mấy hôm cũng ra thông tin rằng khi làm đường, người ta có đụng trúng một bộ hài cốt chôn trong mấy lớp ni lông dầu. Lần theo hướng người dân chỉ, đào kiếm suốt cả tuần thì tìm được anh em.
May mắn rằng có ngôi mộ chôn cùng một lọ thuốc đựng tờ giấy ghi thông tin của Hùng. Đoán ra được Hùng, nhờ vậy mà theo sơ đồ mới xác định được các anh em còn lại. Nhưng không ai biết, ai đã để vào túi áo Hùng lọ thuốc trong đêm tối mịt mù hôm đó?
Đem bốn bộ hài cốt về đến trại thì trời đổ mưa, lòng tôi chợt dậy lên những cảm xúc năm nào. Trong mớ cảm xúc đó, nỗi nhớ Tâm thường trực và ám ảnh. Tôi bỗng thấy mình giận nó vô cùng. Đêm càng về khuya, gió càng xào xạc, tôi thiêm thiếp đi vào giấc ngủ.
Trong sự chập chờn, Tâm từ đâu bước đến, đến một cách lạ kỳ, cũng như cách nó biến mất lạ kỳ không thể nào giải thích được. Tâm đứng trước võng của tôi, hai tay khoanh trước ngực, áo quần bê bết đất:
- Dạ, em thưa anh Hai mới lên. Anh Hai lên đây mấy hôm, mà nay em mới dám đến thăm.
Không hiểu sao tôi lại không quát nạt Tâm, như tôi từng nghĩ mình sẽ quát nó một trận khi gặp. Tôi hỏi:
- Mầy đi đâu mà anh Hai tìm suốt mấy chục năm trời không gặp?
- Dạ, em vẫn ở đây chờ anh Hai. - Im lặng hồi lâu, Tâm nói tiếp:
- Anh Hai lên đưa anh em về, sao anh không đưa em về?
Tôi ngồi bật dậy, hỏi Tâm:
- Mầy ở đây mà ở đâu, sao anh Hai tìm không gặp.
Tâm nói, “dạ, em ở vườn cam!”. Vía tôi bỗng nổi giận:
- Mầy xạo, ở đây làm gì có vườn cam.
Tâm đứng đó nghe xong thì cúi mặt rồi từ từ tan biến vào màu xanh rêu, màu của núi rừng, màu của áo Tâm, màu của áo tôi, màu của tấm cao su giăng làm trại… Lúc đó mới phát hiện rằng mình vừa qua một cơn mơ. Giật mình dậy trời đã sáng.
Tôi lâng lâng ý nghĩ về Tâm và mang một nỗi hy vọng lạ kỳ. Tôi hỏi bà con ở xóm, rằng ở quanh đây có vườn cam nào không? Người ta chỉ rằng phía trước, cách đây hơn một cây số, năm xưa có một vườn cam.
Tôi đến nơi, bây giờ không còn là vườn cam, mà là một ngôi nhà khang trang với hàng rào khép kín. Chủ nhà là một ông lão ngoài bảy mươi. Nghe tôi kể lại chuyện giấc mơ, mắt ông mở to, trầm ngâm hồi lâu, với đôi môi mấp máy, ông kể lại rằng ông có biết một người lính hy sinh ở vườn cam.
Khi ông đến đây lập nghiệp sau chiến tranh ba bốn năm thì xác ấy đã khô mà trên tay vẫn còn cầm cái len, lá cam bỗng dưng rơi đầy trên xác người như ngôi mộ lá. Ông cảm thương, nên đem xác ấy chôn vẹn nguyên vậy ở ngay chỗ mộ lá phủ lên…
Mở những lớp đất lên, Tâm ở đây chứ không ai. Chiếc len có khắc tên đơn vị và Tâm trong bộ đồ năm nào, chiếc áo trắng Tâm vẫn hay mặc, tay áo xắn cao. Và ở bờ ngực áo của Tâm, có hũ thuốc đóng kín nắp, phía trong là một tờ giấy ghi họ tên và đơn vị.
Hộp thuốc và chữ viết y hệt chiếc hộp ở mộ Hùng, quái lạ? Và gần hũ thuốc không xa, cũng nơi túi áo bờ ngực trái có một đầu đạn xuyên qua, vẫn còn đó ghim trong cây xương nhiều năm bị rễ cây ôm chặt…
Tôi ngước mặt về núi, nơi đơn vị năm xưa tiến lên, thảng thốt gọi “Tâm ơi!”. Và hình như có tiếng Tâm đáp lại: “Tâm... ơi, ơi...”, như nó vẫn ở lại nơi đây, đáp lời núi sông đồng vọng.