Tuổi trẻ ngày càng cô đơn
Bắt đầu từ tháng 9 năm 2020, học sinh trên khắp Vương quốc Anh sẽ học cách đẩy lùi sự cô đơn, một vấn đề đang lan nhanh trong giới trẻ, nghiêm trọng đến mức hồi tháng Giêng năm nay, Thủ tướng Anh, Theresa May, đã bổ nhiệm Bộ trưởng “Bộ cô đơn” đầu tiên để lo giải quyết tình trạng này trong cộng đồng.
Cũng mới đây, chính phủ Anh đã công bố một kế hoạch 84 trang với các chi tiết tỉ mỉ hướng dẫn những hành động nhằm kiềm chế sự cô đơn trên khắp đất nước, bao gồm nhiều biện pháp được áp dụng trong các trường học. Bắt đầu từ tiểu học, học sinh sẽ có những bài học bắt buộc về “giáo dục các mối quan hệ” và những bài học này sẽ được kết hợp cùng với lớp giáo dục giới tính ở trung học.
Nhà tâm lý học Julianne Holt- Lunstad, thuộc Đại học Brigham Young, Mỹ, một trong những học giả hàng đầu trong lĩnh vực cô đơn ở Mỹ, cảnh báo rằng nước Mỹ đang có một vấn đề lớn về cô đơn, cần quan tâm. Các trường học ở đây cần học theo Vương quốc Anh, kết hợp các biện pháp ngăn chặn sự cô đơn vào các bài học.
Theo một báo cáo gần đây của công ty chăm sóc sức khỏe Cigna, gần phân nửa người lớn ở Mỹ cho biết đôi khi hoặc luôn luôn cảm thấy cô đơn. Tỷ lệ kết hôn, tỷ lệ theo tôn giáo giảm là những nhân tố nguy cơ gây ra tình trạng cô lập với xã hội và cô đơn. Sự cô đơn đặc biệt phổ biến trong giới trẻ: Một cuộc nghiên cứu hồi năm qua phát hiện rằng những người Mỹ tuổi từ 21 đến 30 cho biết họ cảm thấy cô đơn với số ngày gấp đôi so với những người tuổi từ 50 đến 70, mặc dù họ có mạng lưới xã hội để giao tiếp lớn hơn.
Sự cô đơn có thể gây hậu quả về sức khỏe rất nghiêm trọng, như suy giảm miễn dịch, nhiễm virus, ngủ kém và các vấn đề tim mạch như cao huyết áp.
Cô đơn và cô lập xã hội thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng các khái niệm thì khác biệt. Sự cô đơn là một cảm giác có hoặc không phụ thuộc vào việc có bao nhiêu người bạn tâm giao - một số người cảm thấy cô đơn hoặc bị cô đơn kinh niên, mặc dù không bị cô lập về mặt xã hội. Tuy nhiên, sự cô lập xã hội là một yếu tố hàng đầu dẫn đến cô đơn.
Holt - Lunstad ủng hộ một dạng “giáo dục xã hội”- giống như những nỗ lực được thực hiện bởi các trường học, giáo dục giới tính và giáo dục thể chất - tích hợp vào chương trình giáo dục sức khỏe hiện hành, dạy cho học sinh cách xây dựng, duy trì tình bạn và các mối quan hệ.
Học cách giúp đỡ và hỗ trợ một người bạn hay đối tác đang có nhu cầu cấp bách là kỹ năng xã hội có thể được dạy trong lớp. Ví dụ, một người bạn túng quẫn hỏi mượn tiền của bạn, cô ta thích được hỗ trợ theo cách mà cô cần, thay vì một bài thuyết giảng về quản lý tài chính.
Giáo dục xã hội trong trường học
Holt - Lunstad không phải là người đầu tiên mong muốn học sinh học những kỹ năng thấu cảm và hỗ trợ xã hội trong lớp học hằng ngày. Kể từ năm 1976, các nhà nghiên cứu đã giới thiệu giáo dục xã hội như một phương pháp dạy cho thiếu niên cách nuôi dưỡng và duy trì các mối quan hệ lành mạnh.
Năm 2000, học giả E.Wayne Ross đã tiếp cận một cách khác khi ông viết Theory & Research in Social Education (Lý thuyết và nghiên cứu Giáo dục xã hội). Trong tác phẩm này, ông cho rằng các giáo viên, đặc biệt các giáo viên nghiên cứu về xã hội, nên chú tâm dạy lịch sử và nghĩa vụ công dân từ nhiều quan điểm để nuôi dưỡng sự thấu cảm, chế ngự những bất hòa trong các nhóm học sinh khác nhau.
Dạy các kỹ năng xã hội cũng đã được thực hiện trong nhiều trường dành cho học sinh có những nhu cầu đặc biệt, một số trường cũng vừa thực hiện những phương pháp ngoài chương trình để khuyến khích sự hỗ trợ xã hội trong học sinh, như thiết kế một “băng ghế bạn thân”, để trẻ ngồi trong giờ giải lao hoặc ăn trưa cùng nhau, nhắc chúng đối xử với nhau như bạn.
Nhưng Holt- Lunstad cho rằng, giáo dục ngăn ngừa sự cô đơn không nên giới hạn trong việc dạy học sinh cách hỗ trợ những người khác. Cô tin rằng trẻ cần nên học sớm cách điều chỉnh những phản ứng tiêu cực với nhiều tình huống xã hội.
“Chúng ta thường gặp tình huống khi nhắn tin cho một người nào đó mà không nhận được trả lời ngay”, cô nói, “Cho rằng họ làm mất mặt bạn, coi thường bạn, có thể đưa bạn đến những chỉ trích nặng nề cáu gắt. Thay vào đó, hãy điều chỉnh thái độ bằng cách nghĩ có thể họ đang lái xe, có thể họ đang dự một cuộc họp. Nếu bạn diễn giải các biểu hiện xã hội của người khác là tiêu cực, cách hành xử của bạn với họ có khả năng phản chiếu điều đó”.
Có những ý kiến chỉ trích việc kết hợp giáo dục xã hội vào ngày học có thể làm mất thời gian được dùng cho các chương trình ngăn ngừa khác, như bạo hành thể xác, tự tử và bắt nạt. Nhưng theo Holt - Lunstad, sự cô đơn là một yếu tố nguy cơ đối với những hành vi này. “Giải quyết sự cô lập xã hội, sự cô đơn, tách rời xã hội cũng giúp chúng ta giải quyết tốt những vấn đề khác trong phạm vi nhà trường”, cô nói.
Điều quan trọng nhất trong việc phát triển một chương trình phòng chống cô đơn ở trường học là thiết kế một chương trình giảng dạy hiệu quả. Một số chương trình giảng dạy trong những thập niên gần đây không thành công lắm, như giáo dục giới tính liên quan đến tỷ lệ mang thai cao ở tuổi thiếu niên, phòng chống lạm dụng ma túy. “Vì vậy, chương trình này cần phải được dựa trên bằng chứng”, Holt-Lunstad nói. “Chúng tôi phải rất cẩn thận khi tiến hành các loại can thiệp”.
Sự cô đơn vẫn còn là một vấn đề rắc rối ở Mỹ và trên toàn thế giới, việc dạy các kỹ năng phòng ngừa cho học sinh có thể giúp tạo ra các thế hệ tương lai khỏe mạnh và gắn bó hơn với xã hội. Và cũng giống như những trường học đã thực hiện các chương trình tập thể dục, dinh dưỡng và chống lạm dụng chất kích thích vào chương trình giảng dạy để giúp trẻ em trở thành những người năng động, khỏe mạnh, các khóa học phòng ngừa cô đơn có thể giúp chúng phát triển thành những người đồng cảm, có mối liên kết lành mạnh về mặt xã hội.