Rào cản chất lượng
Trao đổi về vấn đề tiếng Việt của học sinh dân tộc trước khi bước vào bậc tiểu học, thầy Phùng Thế Tùng, Hiệu trưởng Trường PTDTBT Tiểu học Nậm Chảy (Mường Khương, Lào Cai) cho rằng đây là vấn đề khó khăn phải đối diện, khắc phục lâu dài của hầu hết các trường tiểu học vùng có đồng bào dân tộc.
Trước đây khi vào học lớp 1, học sinh đã được học tiếng Việt qua bậc mẫu giáo, cơ bản nhận biết hết chữ cái, con số, được tô chữ cái, số đúng quy trình. Tuy nhiên, hiện nay do quy định thay đổi về nội dung, chương trình học nên học sinh mẫu giáo chỉ được làm quen và nhận biết sơ bộ về chữ cái, con số mà không học cơ bản về nhận biết, tập tô, ghi nhớ chữ cái, số.
Mặt khác, học sinh dân tộc ở bậc mầm non vẫn ở cùng bố mẹ, hàng ngày giao tiếp trong môi trường tiếng mẹ đẻ nên việc làm quen ở trường đã ít khi về nhà không thực hành nên hiệu quả không cao. Khi vào lớp 1, kết hợp với bản tính nhút nhát, rụt rè, trẻ càng ngại giao tiếp bằng tiếng Việt. Do đó việc dạy học ở thời gian đầu hiệu quả chậm, giáo viên phải dùng thời gian trên lớp để củng cố thêm tiếng Việt cho học trò.
Thầy Tạ Văn Kha, Hiệu trưởng Trường PTDTBT Tiểu học Cán Tỷ (Quản Bạ, Hà Giang) cho biết, 2 năm gần đây khi dịch bệnh bùng phát việc dạy học tiếng Việt ở trẻ mầm non 5 tuổi trước khi vào lớp 1 còn hạn chế. Do đó khi tiếp nhận trẻ vào lớp 1 nhà trường khá vất vả trong việc vừa củng cố tiếng Việt, vừa dạy học kiến thức. Tuy vậy, do tiếng Việt được xác định là “nền móng” để học sinh dân tộc tiếp thu kiến thức, học tốt ở những lớp tiếp theo nên trường vẫn phải làm thật chắc, không đốt cháy giai đoạn.
Thầy Phùng Thế Tùng cũng chỉ ra, việc yếu tiếng Việt của học sinh dân tộc vào lớp 1 đã và đang dẫn đến nhiều hạn chế trong quá trình dạy học của giáo viên, chất lượng giáo dục chung của nhà trường. Yếu tiếng Việt cũng dẫn tới việc tiếp thu kiến thức của học sinh trên lớp chậm hơn, đặc biệt so với trẻ ở vùng thuận lợi là khoảng cách không nhỏ khi học cùng một chương trình.
Việc hạn chế nghe, nói, đọc viết tiếng Việt của trẻ dân tộc còn dẫn tới việc giao tiếp, nghe lệnh và tham gia vào các hoạt động chung của nhà trường gặp khó khăn, đặc biệt là các hoạt động tập thể và giáo dục kỹ năng sống thường ngày.
Tiếng Việt là nền tảng quan trọng với học sinh dân tộc. Ảnh: Đức Trí |
Cô Hoàng Thị Thủy, Trường PTDTBT Tiểu học số 1 xã Sín Chéng (Si Ma Cai, Lào Cai) lại cho biết, về phía đội ngũ giáo viên giảng dạy, khi học sinh dân tộc yếu tiếng Việt sẽ gặp khó khăn nhất định như: Giáo viên nói học sinh không hiểu hết câu, nội dung vấn đề yêu cầu thực hiện. Mặt khác, học sinh muốn nói, trình bày ý kiến quan điểm với thầy cô nhưng bị hạn chế về tiếng Việt, khi diễn đạt nội dung không tự tin để trình bày.
Học sinh hạn chế tiếng Việt cũng khiến giáo viên khi giảng dạy mất nhiều thời gian hơn cho một nội dung kiến thức cần truyền đạt để học trò tiếp nhận và hiểu hết. Để dạy học hiệu quả, bắt buộc giáo viên phải tự học thêm ngôn ngữ thứ 2 là tiếng dân tộc của học sinh để có thể giao tiếp song hành và giải thích kiến thức bằng cả 2 thứ tiếng giúp học sinh hiểu và nhanh tiếp thu.
Trong khi đó, thời gian của giáo viên dành cho khối lượng công việc chuyên môn, đặc biệt khi triển khai Chương trình GDPT 2018 ngày càng nhiều thì việc học thêm tiếng dân tộc càng gặp những hạn chế.
Nâng “chất” từ tiếng Việt
Thầy Phùng Thế Tùng, Hiệu trưởng Trường PTDTBT Tiểu học Nậm Chảy (Mường Khương, Lào Cai) cho rằng một trong những giải pháp tăng cường tiếng Việt tối ưu với học sinh vùng dân tộc thiểu số đó là từ cấp mầm non cần điều chỉnh về nội dung chương trình học tiếng Việt phù hợp hơn để hỗ trợ cho học sinh có được những kỹ năng cơ bản trước khi vào lớp 1. Mặt khác, cần có thời gian chuẩn bị tăng cường tiếng Việt theo chương trình 36 buổi tại mỗi trường Tiểu học có tỷ lệ 100% là học sinh dân tộc thiểu số khi bước vào năm học mới.
Việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc tăng cường chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số cũng cần thiết và không thể xem nhẹ việc nâng cao hiệu quả, giúp học sinh thuận lợi khi bước vào học tập.
Nhiều thầy cô giáo dạy học sinh dân tộc cũng cho rằng trước đây có dự án hỗ trợ trẻ khó khăn vùng cao thì mỗi trường, điểm trường được hỗ trợ kinh phí để trả cho người dân tộc tại địa phương làm việc hỗ trợ giáo viên trong quá trình dạy học. Việc làm đó đã đem lại hiệu quả cao hơn cho các thầy cô giáo trong việc giảng dạy và truyền đạt kiến thức cho học sinh dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, hiện nay không còn dự án đó, sự thay đổi về nội dung chương trình của cấp học Mầm non dẫn tới việc dạy học gặp phải một số khó khăn nhất định. Do đó càng đòi hỏi các trường Mần non, Tiểu học vùng dân tộc thiểu số có sự kết hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục học sinh dân tộc thiểu số.
Tăng cường văn hóa đọc ở các trường Tiểu học có học sinh dân tộc. Ảnh: Đức Trí |
Về phía các gia đình, bố mẹ khi ở nhà cần tăng cường việc giao tiếp với con bằng tiếng Việt nhiều hơn. Cho trẻ được tham gia học tập tại các lớp mầm non, mẫu giáo ngay khi đến tuổi đi học.
Cần quan tâm đến con em, phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên, nhà trường để có những điều chỉnh, hỗ trợ tăng cường tiếng Việt cho trẻ từ khi học Mầm non, mẫu giáo.
Đối với các thầy cô giáo dạy học tại các trường vùng cao đặc biệt khó khăn cần tự học hỏi để có thể nghe, nói tiếng dân tộc nơi mình công tác.
Giải quyết và đáp ứng các nhu cầu tháo gỡ khó khăn đó trong thực trạng hiện nay mới có thể từng bước nâng cao chất lượng giáo dục tại các trường vùng cao nơi có 100% học sinh là con em dân tộc thiểu số.